XEM BỆNH QUA RỐN
Rốn lại có tên gọi là con mắt bụng, Trung y gọi rốn là "Thần khuyết", bên trong nối liền 12 kinh mạch, lục phủ ngũ tạng. Trong quá trình phát triển của thai nhi, rốn là chỗ khép kín sau cùng của thành bụng. So với da toàn thân, rốn không có chất mỡ dưới da, công năng che chắn rất yếu, da ngoài nối liền trực tiếp với màng bụng, có mạng huyết quản phong phú, vì thế, rất nhạy cảm với khí hậu thay đổi như nóng, lạnh của bên ngoài. Mấy năm gần đây có văn kiện công bố, một số bác sĩ nước ngoài căn cứ theo kinh nghiệm lâm sàng phát hiện, từ hình dạng mắt rốn có thể thấy được một người khoẻ mạnh hay không.
Rốn hình tròn: Người có rốn hình tròn, nửa phần dưới đầy đặn và hướng lên, đó là một loại rất tốt của nam giới. Loại rốn này biểu thị rõ huyết áp bình thường, các nội tạng như gan, ruột và dạ dày đều khoẻ mạnh vả lại loại người này tinh lực dồi dào.
Rốn hình mặt trăng: Xem dáng vẻ chắc chắn đầy đặn, bụng dưới có tính đàn hồi, đó là loại rốn tốt nhất trong giới. Loại rốn này biểu thị rõ thân thể, tim khoẻ mạnh và công năng buồng trứng tốt.
Rốn hình hướng lên trên: Mắt rốn kéo dài lên trên, hầu như hình thành tam giác có điểm hướng lên trên. Người có loại rốn này bất luận nam hay nữ, phần lớn tình hình dạ dày, mật và lá lách của họ không tốt.
Rốn hình hướng xuống dưới: Hình dạng trái ngược với loại rốn hình hướng lên. Loại rốn này biểu thị rõ bị các bệnh như sa dạ dày, bí đại tiện ... Cũng cần chú ý đến bệnh về ruột, về dạ dày mãn tính và bệnh phụ khoa.
Rốn hình lệch về bên phải: Dễ bị viêm gan, loét hành tá tràng ...
Rốn hình lệch về bên trái: Ruột, dạ dày không tốt, nên chú ý đến các bệnh như bí đại tiện, chứng đau niêm mạc đại tràng.
Rốn hình nhỏ, nông: Mắt rốn vừa nhỏ lại vừa nông, người có loại rốn này, bất kể nam hay nữ, thân thể đều tương đối yếu. Chất kích thích trong cơ thể của họ tiết ra không bình thường, thường xuyên cảm thấy toàn thân mỏi mệt. Rốn của những người có khí công (công của khí) xuất ra chệch choạc, lệch lạc và của người có trở ngại về tinh thần, thường thấy có hình dạng như vậy.
Rốn hình con rắn biển: Vì tĩnh mạch bị dãn làm cho xung quanh rốn giống như con rắn biển cuộn lại. Loại rốn này triệu chứng báo trước thường thấy của bệnh về gan như sơ cứng gan ...
Rốn có hình lồi ra: Khi trong bụng có tích nhiều chất dịch hoặc buồng trứng bị sưng, rốn có thể lồi ra ngoài.Rốn lõm vào: Khi trong bụng xảy ra chứng viêm thay đổi, như viêm màng bụng do lao dính liền, thì rốn có thể bị lõm vào trong.
Saturday, November 29, 2014
[Tử vi tướng số] Xem hình Thể biết bệnh
Khung ngực bình thường, hai bên cân đối, đối xứng, đường kính trước sau ngắn hơn so với đường kính hai bên trái phải, có dạng hình cái thùng phẳng dẹt, cơ bắp bộ ngực nở nang mà giàu tính đàn hồi, thể hiện rõ một loại hình thể đẹp.
XEM BỆNH QUA HÌNH THỂ
Mọi người đều mong muốn mình có một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ. Thân hình của người trẻ khoẻ, đẹp đẽ, khiến cho con người cảm thấy tự nhiên, cường tráng, đầy khí thế sôi nổi. Thân hình của người trung niên và già cả, khoẻ mạnh, đẹp đẽ thì làm cho người ta cảm thấy vững vàng, khoẻ mạnh, tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân còn lưu giữ lại được.
Vậy thì, thế nào là thân hình khoẻ mạnh và đẹp đẽ ? Các chuyên gia cho rằng, một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ, cân đối phải là: Cơ bắp của người nam giới vạm vỡ đẫy đà, cân đối, còn nữ giới thì phải có thân hình phốp pháp, nở nang nhưng không béo phị; hai vai cân đối, vai của nam phải rộng, của nữ phải tròn, hơi thon; cột sống nhìn từ phía sau lưng phải thẳng, nhìn từ bên cạnh phải có đường cong sinh lý bình thường, xương bả vai không nhô lên như hai cánh; ngực phải rộng, nhìn từ chính diện phải như hình thang, nữ giới đôi bầu vú phải đầy đặn, chúm nhô ra mà không xệ xuống, nhìn từ bên cạnh phải có đặc trưng đường nét nữ tính rõ rệt, nữ giới lưng phải nhỏ ngắn, như hình trụ tròn, bụng phải phẳng dẹt, tay phải tròn trặn. Nam giới tai giữa hơi vểnh lên, nữ giới thì sa xuống, chân dài, cẳng chân dài và vị trí cơ bắp chân tương đối cao và hơi phình ra, nhìn về tổng thể, không có cảm giác mất cân đối về tỷ lệ.
Thân hình khoẻ đẹp không chỉ là một tiêu chí quan trọng để xác định thân hình đẹp của con người, mà còn là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh của cơ thể con người nữa. Còn thân hình béo phị, gầy còm hoặc tỷ lệ giữa các bộ phận cơ thể mất cân đối, là đã mất đi một cảm giác đẹp bên ngoài của cơ thể. Hơn nữa, lại thường dự báo trong cơ thể đang ẩn náu bị một bệnh tật nào đó.
Dưới đây xin trình bày một số phương pháp nhìn thân hình để theo dõi bệnh:
1. Béo phì
Chất mỡ của cơ thể tích tụ nhiều gọi là béo phì. Béo phì thường chia làm hai loại: một loại là béo phì có tính kế phát, đó là béo do ự phân tiết bên trong mất điều hoà gây ra một số bệnh nào đó. Ví dụ: béo phì do chất insulin, béo phì do cơ năng của tuyến giáp trạng giảm xuống v.v... loại béo phì này rất ít gặp. Một loại khác là béo phì có tính đơn thuần, béo phì do các nhân tố di truyền, do ăn uống quá nhiều, ít vận động, tâm lý, tinh thần, nhân tố môi trường v.v... tất cả đều có tác dụng đối với loại béo phì này. Nhận xét một người có béo phì hay không, không thể chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài, mà còn phải có một tiêu chuẩn khách quan, chỉ có khi cân nặng của cơ thể vượt quá 20% cận nặng tiêu chuẩn của cơ thể, mới có thể coi là béo phì.
Chúng ta biết người béo phì dễ bị các chứng bệnh mạn tính như huyết áp cao, bị bệnh ở hệ thống vành mạch của tim, bị bệnh đái tháo đường v.v... Thống kê y học đã chứng tỏ, số người bị bệnh ở hệ thống mạch vành tim béo phì nhiều gấp 5 lần so với người bình thường, bị bệnh cao huyết áp nhiều gấp 8 lần so với người bình thường, bị bệnh đái tháo đường nhiều gấp 7 lần so với người bình thường. Tuổi thọ bình quân của người béo cũng thấp hơn nhiều so với người có thể trọng bình thường. Các tài liệu nước ngoài chứng tỏ, người già vượt quá từ 35 đến 40% thể trọng tiêu chuẩn thì tỷ lệ tử vong tăng cao rõ rệt.
Gần đây các nhà khoa học phát hiện, người béo bụng nguy hiểm hơn người béo ở mông, và dễ bị bệnh tim hơn. Một công trình nghiên cứu của trường đại học San luis Washington của Mỹ chứng tỏ, người béo ở mông với người béo ở bụng, chất côlextêrôn chứa trong cơ thể họ có khác nhau. Hàm lượng các chất côlextêrôn, abumin, mỡ cao trong cơ thể của những người mông béo, eo lưng nhỏ cao, chất côlextêrôn .này sẽ thấp, vì thế khả năng bị bệnh tim lớn. Nói chung những phụ nữ béo, dẽ béo ở mông, nam giới dễ béo bụng, đó cũng là một trong những nguyên nhân vì sao nam giới dễ mắc bệnh tim hơn nữ giới.
Vậy thì xác định như thế nào là béo ở bụng? Ở đây có một phương pháp tính đơn giản là:
Đứng đo kích thướn vòng eo và vòng mông, vòng mông lấy ở chỗ mông to nhất làm chuẩn, sau đó lấy kích thước vòng eo chia cho số đo vòng mông thì được tỷ lệ giữa vòng eo và mông. Nếu vòng eo của một người nào đó là 79cm, vòng mông là 92cm thì tỷ lệ số giữa vòng eo và mông của người đó là 0,86, giới hạn trên của tỷ số giữa eo và mông của nam giới là từ 0,85 đến 0,9, của nữ giới là 0,75 đến 0,8, vượt quá phạm vi này thì xem là béo ở bụng. Do phương pháp này đơn giản, thực dụng, khả năng dự tính của nó rất nhanh, giống như đo huyết áp và chỉ tiêu côlextêrôn, cho nên nó được coi là một trong những chỉ tiêu áp dụng phổ biến để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của tim mạch mọi người.
2. Gầy còm (sút cân)
Có thể người ta phát phì vất lợi cho sức khoẻ, nhưng nếu người ta cân nặng quá nhẹ, da dẻ thiếu tính đàn hồi, xương gầy như que củi, mặt mày, da dẻ khô khốc, yếu không chịu được gió máy, cũng là biểu hiện của sức khoẻ kém. Cơ thể con người do bệnh tật hay do nguyên nhân nào đó mà thể trọng giảm đi, sút tới trên 10% thể trọng bình thường thì gọi là gầy còm, (sút cân). Bác sỹ người Anh là Cayley, có nói một câu nổi tiếng là "Gầy là cửa sổ của bệnh tật". Nếu một người, trong trường hợp ăn uống sinh hoạt hàng ngày, tình thần, môi trường và cường độ làm việc tương đối ổn định, mà cơ thể trong thời gian ngắn ngày càng sút cân, gầy còm thì cần phải cảnh giácc với sự tồn tại của bệnh tật. Phải nhìn thấu qua các cửa "gầy" đó, mà tìm ra trong cơ thể có hay không có bệnh tật đang ở trạng thái ủ bệnh.
Thân thể thanh niên gầy yếu, thể hiện sức mạnh cơ bắp tương đối kém (nhất là cơ lưng) thường có thể xảy ra biến dạng cột sống, đường kính các bộ phận trong cơ thể ngắn, sức mạnh của cơ bắp, nội tạng chống đỡ yếu, các cơ quan nội tạng phát triển không tốt, đang tồn tại triệu chứng dinh dưỡng không tốt với mức độ khác nhau, dễ bị mắc bệnh.
Các chuyên gia cho rằng, thanh thiếu niên quá sút cân, gầy còm, đại thể có mấy nguyên nhân như sau:
Một là, ăn kém tiêu hoá không tốt.
Hai là, ngủ không theo nề nếp hoặc do thần kinh suy nhược mà sinh mất ngủ dài ngày.
Bà là, do thiếu dinh dưỡng lâu ngày mà mắc bệnh mạn tính.
Bốn là, vào thời kỳ cơ thể phát triển mà thiếu rèn luyện thể lực, cơ thể không được phát triển đầy đủ, các thớ sợi cơ bắp không tăng lớn lên được. Ngoài ra còn do cơ năng của tuyến nội tiết bị trở ngại, cũng làm cho cơ thể sút cân, gầy còm.
Người trung niên gầy còm tương đối ít thấy, đó là bởi vì nhiệt lượng ăn vào của người trung niên vượt quá lượng tiêu hao, chất năng lượng dư thừa được chuyển hoá thành chất mỡ tích trữ lại ở các tổ chức trong cơ thể và ở dưới da, cho nên bất kể nam hay nữ bươc vào thời kỳ trung niên, đại đa số là béo lên.
Những người trung niên nếu quá gầy còm, thường là triệu chứng xấu. Tuy nhiên là các chứng viêm hoặc loét các tạng như khoang miệng, dạ dày, ruột, gan, lá lách ... đều có thể gây trở ngại cho việc hấp thụ tiêu hoá mà dẫn đến gầy còm, nhưng phải đặc biệt cảnh giác với bệnh khối u ác tính, bởi vì sút cân, gầy còm là triệu chứng nổi lên của u ác tính. Gầy có kèm theo đau hoặc có mụn sưng ở chỗ nào đó, đều phải nghĩ đến khả năng của khối u ác tính. Vì thế, những người trung niên, nếu bỗng nhiên gầy đi thì cần phải kịp thời mời thầy thuốc kiểm tra kỹ, không được coi thường.
Người ta tới 60 tuổi dần gầy đi, phần nhiều là bình thường lại có thể tránh được nhiều bệnh tật mạn tính do béo gây nên. Ngạn ngữ có câu: "Có tiền khó mua được cái gầy của tuổi già", nhưng cái gầy của tuổi già lại cũng không thể lạc quan mù quáng, điều mà tuổi già phải cảnh giác là một số bệnh tật khác như:
Gầy thông thường, tức là gầy có tính cấu tạo về thể chất. Loại gầy này không phải do bệnh tật trong cơ thể gây nên, mà là do lâu ngày ăn uống thiếu thốn và không thích vận động gây nên. Loại người gầy này có thể kèm theo các chứng bệnh thần kinh suy nhược như tiêu hoá không tốt, dễ cảm thấy mỏi mệt, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ ...
Gầy và có kèm theo chứng bệnh về đường tiêu hoá, nhất là bệnh ỉa chảy mạn tính không rõ ràng, thường thấy ở những người bị các bệnh như viêm dạ dày mạn tính, loét đường tiêu hoá, viêm kết tràng mạn tính không có tính đặc biệt khác ...
Mức độ gầy tăng dần lên nghiêm trọng và có kèm theo triệu chứng về bệnh đường tiêu hoá hoặc có các biển hiện về phiền muộn, lạnh lùng, tinh thần tuổi già rối loạn, thấp nhiệt (ít năng lượng) ... thường thấy ở những người công năng của tuyến giáp trạng cường đại (tăng lên quá mức bình thường).
Trước tiên là gầy, sau lại dần dần thấy có triệu chứng lắng đọng sắc tố niêm mạc trên da, thường thấy ở người công năng của màng tuyến thượng thận bị giảm sút.
Thời kỳ đầu phần nhiều là béo, nhưng sau thời gian dài, lại dần dần gầy đi, thường thấy ở những người có bệnh đái tháo đường của tuổi già. Ở đây cần nhắc nhở mọi người là có người bị bệnh đái tháo đường do tuổi già, tuy không có chứng bệnh "ba nhiều" (ăn nhiều, uống nhiều và đi tiểu nhiều), nhưng do bị rối loạn sự trao đổi đường lâu ngày, tất nhiên là gầy còm.
Gầy không có nguyên nhân, nhất là người gầy đi rõ trong thời gian ngắn gần đây thì cần phải cảnh giác với bệnh ung thư. Vì ung thư ác tính thời kỳ đầu đều thấy gầy không rõ nguyên nhân.
Gầy đến với tuổi già, ngoài các nguyên nhân nói trên, còn thường thấy ở những bệnh truyền nhiễm mạn tính, như bệnh lao của tuổi già, bệnh ký sinh trùng của tuổi ... Viêm gan mạnh tính của tuổi già thường thấy nhiều. Gầy do nguồn gốc thuốc gây nên, đó là do uống một số thuôc làm tăng khả năng trao đổi trông cơ thể gây nên, như uống các thuốc (dinitro phenol và thyroxin...)
3. Cao thấp.
Trong cuộc sống có người vì cơ thể thấp lùn mà sinh ra buồn lòng ngán ngẩm, có người thì vì mình có thân thể cao mà hớn hở tự vui mừng. Kỳ thực bất kể nam hay nữ, chỉ cần có thân hình lớn cân đối, rắn chắc, không cao quá hoặc thấp quá, đều là bình thường. Mà chỉ có những người cao lớn quá mức (chứng bệnh của người khổng lồ), quá thấp (chứng bệnh của người lùn) hộăc tất cả các anh chị em trong nhà tương đối cao, độc chỉ có một mình là thấp bé, gầy yếu, mới có thể xem là bị bệnh. Như:
Thân thể cao lớn khác thường: Nếu tự động sinh trưởng tương đối nhanh, đến xấp xỉ 10 tuổi đã cao như người lớn, đến thời kỳ thanh xuân phát triển, thế cao lớn càng rõ hơn, có thể từ sinh trưởng đến xấp xỉ 30 tuổi, người cao nhất có thể cao trên 240cm. Nhìn từ bề ngoài, nếu cơ thể tương đối cân đối, cơ quan giới tính phát triển tương đối sớm, cơ bắp nở nang, sức khoẻ vượt hơn người, đó là bị mắc chứng bệnh người khổng lồ. Chứng bệnh người khổng lồ là do ở thời kỳ nhi đồng, tế bào hormone sinh trưởng là trước tuyến yên của não tăng sinh hoặc hormone sinh trưởng của hệ thống phân tiết trong cơ thể quá nhiều gây nên. Công năng của các tuyến nội tiết ở thời kỳ đầu tăng lên quá mức bình thường, vào thời kỳ cuối thì giảm đi sau khi thành niên trên nửa số kế phát ra chứng to phì đầu các chi (chân tay).
Thân thể đặc biệt thấp bé: Nếu lúc đến tuổi thành niên mà người vẫn cao không tới 120cm, đó là mắc chứng bệnh người thấp bé hay chứng bệnh người lùn. Chứng bệnh thấp bé có thể do công năng tuyến yên dưới não giảm gây nên.. Nó có đặc điểm là: Thân hình đại thể bình thường, đầu và thân tương đối bé, chứng tích về giới tính thứ hai (lông nách, râu, tiếng nói ...) phát triển chậm, vì xương mềm phát triển không đều mà gây ra chứng thấp bé. Đặc điểm của chứng bệnh này là đầu và thân dù to, dù nhỏ, nhưng trông cũng y như người lớn, chỉ có là chân tay đã ngắn lại bị khòng khèo, lưng nhô lên cao. Ngoài ra, chứng bệnh thấp bé còn có thể do nguyên nhân về dinh dưỡng hoặc trao đổi chất bị rối loạn gây nên. Bệnh lùn ngô nghê có thể do công năng của tuyến giáp trạng lúc ấu thơ bị giảm gây nên.
Thân thể thấp bé, gầy yếu so với người cùng tuổi, mà lại không có cách gì giải thích được (ghi chú) về mặt quy luật di truyền và môi trường sống, thì cần phải xét tới khả năng bị bệnh mạn tính, như bị bệnh còi xương, bệnh lao cột sống, dị hình cột sống, bị bệnh tim bẩm sinh và bệnh thận mạn tính ... thân thể thường thường trở nên thấp bé, gầy yếu.
Ghi chú:
Một người cuối cùng có thể cao được bao nhiêu ? Đó là do nhân tố của nhiều mặt quyết định, như giống người, di truyền, môi trường sống, dinh dưỡng, rèn luyện thể thao ... trong đó điều có tác dụng quyết định là di truyền. Các tài liệu nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ, thân thể cao hay thấp, 75% phụ thuộc vào đặc tính di truyền của bố mẹ. Quy luật di truyền nói chung là: Cha mẹ đều cao thì con cái đều cao (cao cộng với cao, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ một cao một thấp thì con cái cũng cao (cao cộng với thấp, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ đều thấp thì con cái thấp (thấp cộng với thấp sinh ra thấp). Ngoài di truyền ra, giống người và môi trường sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến chiều cao cơ thể. Nói chung, giống người da trắng có thân hình cao to, còn người da vàng có thân hình tương đối thấp bé. Theo thống kê, Trung Quốc có 80% nam giới có thân hình cao từ 1,60m đến 1,75m; 80% nữ giới ở tuổi thành niên có thân hình cao từ 1,50 đến 1,64m. Ngoài ra, chiều cao bình quân của người lớn ở phươngNam và phương Bắc Trung Quốc cũng chênh lệch tương đối lớn. Người ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc tương đối cao, to, nam nữ bình quân cao lần lượt là 1,65m và 1,59; Người vùng Hoa Nam, Tây Nam tương đối thấp. chiều cao bình quân của nam nữ ở đó lần lượt là 1,65m và 1,55m.
4. Khung ngực:
Khung ngực, thường gọi là bộ ngực, nó bao gồm bộ phận dưới cổ và trên eo lưng, chủ yếu do xương ngực, xương sườn và tổ chức cơ ... tạo nên. Khung ngực bình thường, hai bên cân đối, đối xứng, đường kính trước sau ngắn hơn so với đường kính hai bên trái phải, có dạng hình cái thùng phẳng dẹt, cơ bắp bộ ngực nở nang mà giàu tính đàn hồi, thể hiện rõ một loại hình thể đẹp. Khung ngực khác thường, không những khó coi, mà còn thể hiện tồn tại của bệnh tật. Như:
Đường kính trước sau của khung ngực không đến một nửa đường kính bên trái bên phải, có dạng phẳng dẹt lệch và bộ phận cổ nhỏ dài, xương quai xanh nhô ra, y học gọi ngực đó là "ngực phẳng dẹt" (Ngực lép), nó thể hiện cơ thể rất gầy, cần phải tăng cường bồi dưỡng, cũng có thể là do bệnh mạn tính gây neê, như bệnh lao phổi ... Điều này đòi hỏi phải đến bệnh viện kiểm tra, chẩn đoán và kịp thời điều trị.
Đường kính trước và sau của bộ ngực tăng dài, có khi có thể ngang bằng với đường kính bên trái bên phải, độ nghiêng ở dưới về phía trước của cung xương sườn nâng lên, khe giữa các xương sườn tăng rộng, có khi đầy đặn toàn bộ ngực có hình cái thùng tròn. Y học gọi bộ ngực này là "ngực hình thùng". Ngực này thường thấy ở người bị bệnh hen suyễn nhánh khí quản, bị viêm nhánh khí quản mạn tính gây ra bệnh phúc hơi ở phổi.
Đường kính trước và sau của ngực dài hơn đường kính trái và phải, bộ ngực lồi ra phía trước và lại hẹp như ngực của gà. Y học gọi đây là "ngực gà", lại còn gọi là ngực của bệnh còi xương nữa. Đó là thể chứng riêng của sự thay đổi bộ xương do bệnh còi xương thiếu vitamin D gây nên. Bệnh này phần nhiều thấy ở nhi đồng và thiếu niên.Bộ ngực một bên quá to hoặc quá nhỏ, làm cho hai bên trái và phải của ngực không cân xứng. Nếu bộ ngực một bên quá to (lồi lên cục bộ), chứng tỏ có thể là bị bệnh viêm màng ngực, bệnh ngực hơi ... Nếu một bên ngực nhỏ (lõm cục bộ), chứng tỏ khả năng bị bệnh lao phổi, viêm phổi, bệnh phổi bị suy thoái ... làm cho một bên phổi không căng lên được.
XEM BỆNH QUA HÌNH THỂ
Mọi người đều mong muốn mình có một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ. Thân hình của người trẻ khoẻ, đẹp đẽ, khiến cho con người cảm thấy tự nhiên, cường tráng, đầy khí thế sôi nổi. Thân hình của người trung niên và già cả, khoẻ mạnh, đẹp đẽ thì làm cho người ta cảm thấy vững vàng, khoẻ mạnh, tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân còn lưu giữ lại được.
Vậy thì, thế nào là thân hình khoẻ mạnh và đẹp đẽ ? Các chuyên gia cho rằng, một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ, cân đối phải là: Cơ bắp của người nam giới vạm vỡ đẫy đà, cân đối, còn nữ giới thì phải có thân hình phốp pháp, nở nang nhưng không béo phị; hai vai cân đối, vai của nam phải rộng, của nữ phải tròn, hơi thon; cột sống nhìn từ phía sau lưng phải thẳng, nhìn từ bên cạnh phải có đường cong sinh lý bình thường, xương bả vai không nhô lên như hai cánh; ngực phải rộng, nhìn từ chính diện phải như hình thang, nữ giới đôi bầu vú phải đầy đặn, chúm nhô ra mà không xệ xuống, nhìn từ bên cạnh phải có đặc trưng đường nét nữ tính rõ rệt, nữ giới lưng phải nhỏ ngắn, như hình trụ tròn, bụng phải phẳng dẹt, tay phải tròn trặn. Nam giới tai giữa hơi vểnh lên, nữ giới thì sa xuống, chân dài, cẳng chân dài và vị trí cơ bắp chân tương đối cao và hơi phình ra, nhìn về tổng thể, không có cảm giác mất cân đối về tỷ lệ.
Thân hình khoẻ đẹp không chỉ là một tiêu chí quan trọng để xác định thân hình đẹp của con người, mà còn là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh của cơ thể con người nữa. Còn thân hình béo phị, gầy còm hoặc tỷ lệ giữa các bộ phận cơ thể mất cân đối, là đã mất đi một cảm giác đẹp bên ngoài của cơ thể. Hơn nữa, lại thường dự báo trong cơ thể đang ẩn náu bị một bệnh tật nào đó.
Dưới đây xin trình bày một số phương pháp nhìn thân hình để theo dõi bệnh:
1. Béo phì
Chất mỡ của cơ thể tích tụ nhiều gọi là béo phì. Béo phì thường chia làm hai loại: một loại là béo phì có tính kế phát, đó là béo do ự phân tiết bên trong mất điều hoà gây ra một số bệnh nào đó. Ví dụ: béo phì do chất insulin, béo phì do cơ năng của tuyến giáp trạng giảm xuống v.v... loại béo phì này rất ít gặp. Một loại khác là béo phì có tính đơn thuần, béo phì do các nhân tố di truyền, do ăn uống quá nhiều, ít vận động, tâm lý, tinh thần, nhân tố môi trường v.v... tất cả đều có tác dụng đối với loại béo phì này. Nhận xét một người có béo phì hay không, không thể chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài, mà còn phải có một tiêu chuẩn khách quan, chỉ có khi cân nặng của cơ thể vượt quá 20% cận nặng tiêu chuẩn của cơ thể, mới có thể coi là béo phì.
Chúng ta biết người béo phì dễ bị các chứng bệnh mạn tính như huyết áp cao, bị bệnh ở hệ thống vành mạch của tim, bị bệnh đái tháo đường v.v... Thống kê y học đã chứng tỏ, số người bị bệnh ở hệ thống mạch vành tim béo phì nhiều gấp 5 lần so với người bình thường, bị bệnh cao huyết áp nhiều gấp 8 lần so với người bình thường, bị bệnh đái tháo đường nhiều gấp 7 lần so với người bình thường. Tuổi thọ bình quân của người béo cũng thấp hơn nhiều so với người có thể trọng bình thường. Các tài liệu nước ngoài chứng tỏ, người già vượt quá từ 35 đến 40% thể trọng tiêu chuẩn thì tỷ lệ tử vong tăng cao rõ rệt.
Gần đây các nhà khoa học phát hiện, người béo bụng nguy hiểm hơn người béo ở mông, và dễ bị bệnh tim hơn. Một công trình nghiên cứu của trường đại học San luis Washington của Mỹ chứng tỏ, người béo ở mông với người béo ở bụng, chất côlextêrôn chứa trong cơ thể họ có khác nhau. Hàm lượng các chất côlextêrôn, abumin, mỡ cao trong cơ thể của những người mông béo, eo lưng nhỏ cao, chất côlextêrôn .này sẽ thấp, vì thế khả năng bị bệnh tim lớn. Nói chung những phụ nữ béo, dẽ béo ở mông, nam giới dễ béo bụng, đó cũng là một trong những nguyên nhân vì sao nam giới dễ mắc bệnh tim hơn nữ giới.
Vậy thì xác định như thế nào là béo ở bụng? Ở đây có một phương pháp tính đơn giản là:
Đứng đo kích thướn vòng eo và vòng mông, vòng mông lấy ở chỗ mông to nhất làm chuẩn, sau đó lấy kích thước vòng eo chia cho số đo vòng mông thì được tỷ lệ giữa vòng eo và mông. Nếu vòng eo của một người nào đó là 79cm, vòng mông là 92cm thì tỷ lệ số giữa vòng eo và mông của người đó là 0,86, giới hạn trên của tỷ số giữa eo và mông của nam giới là từ 0,85 đến 0,9, của nữ giới là 0,75 đến 0,8, vượt quá phạm vi này thì xem là béo ở bụng. Do phương pháp này đơn giản, thực dụng, khả năng dự tính của nó rất nhanh, giống như đo huyết áp và chỉ tiêu côlextêrôn, cho nên nó được coi là một trong những chỉ tiêu áp dụng phổ biến để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của tim mạch mọi người.
2. Gầy còm (sút cân)
Có thể người ta phát phì vất lợi cho sức khoẻ, nhưng nếu người ta cân nặng quá nhẹ, da dẻ thiếu tính đàn hồi, xương gầy như que củi, mặt mày, da dẻ khô khốc, yếu không chịu được gió máy, cũng là biểu hiện của sức khoẻ kém. Cơ thể con người do bệnh tật hay do nguyên nhân nào đó mà thể trọng giảm đi, sút tới trên 10% thể trọng bình thường thì gọi là gầy còm, (sút cân). Bác sỹ người Anh là Cayley, có nói một câu nổi tiếng là "Gầy là cửa sổ của bệnh tật". Nếu một người, trong trường hợp ăn uống sinh hoạt hàng ngày, tình thần, môi trường và cường độ làm việc tương đối ổn định, mà cơ thể trong thời gian ngắn ngày càng sút cân, gầy còm thì cần phải cảnh giácc với sự tồn tại của bệnh tật. Phải nhìn thấu qua các cửa "gầy" đó, mà tìm ra trong cơ thể có hay không có bệnh tật đang ở trạng thái ủ bệnh.
Thân thể thanh niên gầy yếu, thể hiện sức mạnh cơ bắp tương đối kém (nhất là cơ lưng) thường có thể xảy ra biến dạng cột sống, đường kính các bộ phận trong cơ thể ngắn, sức mạnh của cơ bắp, nội tạng chống đỡ yếu, các cơ quan nội tạng phát triển không tốt, đang tồn tại triệu chứng dinh dưỡng không tốt với mức độ khác nhau, dễ bị mắc bệnh.
Các chuyên gia cho rằng, thanh thiếu niên quá sút cân, gầy còm, đại thể có mấy nguyên nhân như sau:
Một là, ăn kém tiêu hoá không tốt.
Hai là, ngủ không theo nề nếp hoặc do thần kinh suy nhược mà sinh mất ngủ dài ngày.
Bà là, do thiếu dinh dưỡng lâu ngày mà mắc bệnh mạn tính.
Bốn là, vào thời kỳ cơ thể phát triển mà thiếu rèn luyện thể lực, cơ thể không được phát triển đầy đủ, các thớ sợi cơ bắp không tăng lớn lên được. Ngoài ra còn do cơ năng của tuyến nội tiết bị trở ngại, cũng làm cho cơ thể sút cân, gầy còm.
Người trung niên gầy còm tương đối ít thấy, đó là bởi vì nhiệt lượng ăn vào của người trung niên vượt quá lượng tiêu hao, chất năng lượng dư thừa được chuyển hoá thành chất mỡ tích trữ lại ở các tổ chức trong cơ thể và ở dưới da, cho nên bất kể nam hay nữ bươc vào thời kỳ trung niên, đại đa số là béo lên.
Những người trung niên nếu quá gầy còm, thường là triệu chứng xấu. Tuy nhiên là các chứng viêm hoặc loét các tạng như khoang miệng, dạ dày, ruột, gan, lá lách ... đều có thể gây trở ngại cho việc hấp thụ tiêu hoá mà dẫn đến gầy còm, nhưng phải đặc biệt cảnh giác với bệnh khối u ác tính, bởi vì sút cân, gầy còm là triệu chứng nổi lên của u ác tính. Gầy có kèm theo đau hoặc có mụn sưng ở chỗ nào đó, đều phải nghĩ đến khả năng của khối u ác tính. Vì thế, những người trung niên, nếu bỗng nhiên gầy đi thì cần phải kịp thời mời thầy thuốc kiểm tra kỹ, không được coi thường.
Người ta tới 60 tuổi dần gầy đi, phần nhiều là bình thường lại có thể tránh được nhiều bệnh tật mạn tính do béo gây nên. Ngạn ngữ có câu: "Có tiền khó mua được cái gầy của tuổi già", nhưng cái gầy của tuổi già lại cũng không thể lạc quan mù quáng, điều mà tuổi già phải cảnh giác là một số bệnh tật khác như:
Gầy thông thường, tức là gầy có tính cấu tạo về thể chất. Loại gầy này không phải do bệnh tật trong cơ thể gây nên, mà là do lâu ngày ăn uống thiếu thốn và không thích vận động gây nên. Loại người gầy này có thể kèm theo các chứng bệnh thần kinh suy nhược như tiêu hoá không tốt, dễ cảm thấy mỏi mệt, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ ...
Gầy và có kèm theo chứng bệnh về đường tiêu hoá, nhất là bệnh ỉa chảy mạn tính không rõ ràng, thường thấy ở những người bị các bệnh như viêm dạ dày mạn tính, loét đường tiêu hoá, viêm kết tràng mạn tính không có tính đặc biệt khác ...
Mức độ gầy tăng dần lên nghiêm trọng và có kèm theo triệu chứng về bệnh đường tiêu hoá hoặc có các biển hiện về phiền muộn, lạnh lùng, tinh thần tuổi già rối loạn, thấp nhiệt (ít năng lượng) ... thường thấy ở những người công năng của tuyến giáp trạng cường đại (tăng lên quá mức bình thường).
Trước tiên là gầy, sau lại dần dần thấy có triệu chứng lắng đọng sắc tố niêm mạc trên da, thường thấy ở người công năng của màng tuyến thượng thận bị giảm sút.
Thời kỳ đầu phần nhiều là béo, nhưng sau thời gian dài, lại dần dần gầy đi, thường thấy ở những người có bệnh đái tháo đường của tuổi già. Ở đây cần nhắc nhở mọi người là có người bị bệnh đái tháo đường do tuổi già, tuy không có chứng bệnh "ba nhiều" (ăn nhiều, uống nhiều và đi tiểu nhiều), nhưng do bị rối loạn sự trao đổi đường lâu ngày, tất nhiên là gầy còm.
Gầy không có nguyên nhân, nhất là người gầy đi rõ trong thời gian ngắn gần đây thì cần phải cảnh giác với bệnh ung thư. Vì ung thư ác tính thời kỳ đầu đều thấy gầy không rõ nguyên nhân.
Gầy đến với tuổi già, ngoài các nguyên nhân nói trên, còn thường thấy ở những bệnh truyền nhiễm mạn tính, như bệnh lao của tuổi già, bệnh ký sinh trùng của tuổi ... Viêm gan mạnh tính của tuổi già thường thấy nhiều. Gầy do nguồn gốc thuốc gây nên, đó là do uống một số thuôc làm tăng khả năng trao đổi trông cơ thể gây nên, như uống các thuốc (dinitro phenol và thyroxin...)
3. Cao thấp.
Trong cuộc sống có người vì cơ thể thấp lùn mà sinh ra buồn lòng ngán ngẩm, có người thì vì mình có thân thể cao mà hớn hở tự vui mừng. Kỳ thực bất kể nam hay nữ, chỉ cần có thân hình lớn cân đối, rắn chắc, không cao quá hoặc thấp quá, đều là bình thường. Mà chỉ có những người cao lớn quá mức (chứng bệnh của người khổng lồ), quá thấp (chứng bệnh của người lùn) hộăc tất cả các anh chị em trong nhà tương đối cao, độc chỉ có một mình là thấp bé, gầy yếu, mới có thể xem là bị bệnh. Như:
Thân thể cao lớn khác thường: Nếu tự động sinh trưởng tương đối nhanh, đến xấp xỉ 10 tuổi đã cao như người lớn, đến thời kỳ thanh xuân phát triển, thế cao lớn càng rõ hơn, có thể từ sinh trưởng đến xấp xỉ 30 tuổi, người cao nhất có thể cao trên 240cm. Nhìn từ bề ngoài, nếu cơ thể tương đối cân đối, cơ quan giới tính phát triển tương đối sớm, cơ bắp nở nang, sức khoẻ vượt hơn người, đó là bị mắc chứng bệnh người khổng lồ. Chứng bệnh người khổng lồ là do ở thời kỳ nhi đồng, tế bào hormone sinh trưởng là trước tuyến yên của não tăng sinh hoặc hormone sinh trưởng của hệ thống phân tiết trong cơ thể quá nhiều gây nên. Công năng của các tuyến nội tiết ở thời kỳ đầu tăng lên quá mức bình thường, vào thời kỳ cuối thì giảm đi sau khi thành niên trên nửa số kế phát ra chứng to phì đầu các chi (chân tay).
Thân thể đặc biệt thấp bé: Nếu lúc đến tuổi thành niên mà người vẫn cao không tới 120cm, đó là mắc chứng bệnh người thấp bé hay chứng bệnh người lùn. Chứng bệnh thấp bé có thể do công năng tuyến yên dưới não giảm gây nên.. Nó có đặc điểm là: Thân hình đại thể bình thường, đầu và thân tương đối bé, chứng tích về giới tính thứ hai (lông nách, râu, tiếng nói ...) phát triển chậm, vì xương mềm phát triển không đều mà gây ra chứng thấp bé. Đặc điểm của chứng bệnh này là đầu và thân dù to, dù nhỏ, nhưng trông cũng y như người lớn, chỉ có là chân tay đã ngắn lại bị khòng khèo, lưng nhô lên cao. Ngoài ra, chứng bệnh thấp bé còn có thể do nguyên nhân về dinh dưỡng hoặc trao đổi chất bị rối loạn gây nên. Bệnh lùn ngô nghê có thể do công năng của tuyến giáp trạng lúc ấu thơ bị giảm gây nên.
Thân thể thấp bé, gầy yếu so với người cùng tuổi, mà lại không có cách gì giải thích được (ghi chú) về mặt quy luật di truyền và môi trường sống, thì cần phải xét tới khả năng bị bệnh mạn tính, như bị bệnh còi xương, bệnh lao cột sống, dị hình cột sống, bị bệnh tim bẩm sinh và bệnh thận mạn tính ... thân thể thường thường trở nên thấp bé, gầy yếu.
Ghi chú:
Một người cuối cùng có thể cao được bao nhiêu ? Đó là do nhân tố của nhiều mặt quyết định, như giống người, di truyền, môi trường sống, dinh dưỡng, rèn luyện thể thao ... trong đó điều có tác dụng quyết định là di truyền. Các tài liệu nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ, thân thể cao hay thấp, 75% phụ thuộc vào đặc tính di truyền của bố mẹ. Quy luật di truyền nói chung là: Cha mẹ đều cao thì con cái đều cao (cao cộng với cao, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ một cao một thấp thì con cái cũng cao (cao cộng với thấp, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ đều thấp thì con cái thấp (thấp cộng với thấp sinh ra thấp). Ngoài di truyền ra, giống người và môi trường sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến chiều cao cơ thể. Nói chung, giống người da trắng có thân hình cao to, còn người da vàng có thân hình tương đối thấp bé. Theo thống kê, Trung Quốc có 80% nam giới có thân hình cao từ 1,60m đến 1,75m; 80% nữ giới ở tuổi thành niên có thân hình cao từ 1,50 đến 1,64m. Ngoài ra, chiều cao bình quân của người lớn ở phươngNam và phương Bắc Trung Quốc cũng chênh lệch tương đối lớn. Người ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc tương đối cao, to, nam nữ bình quân cao lần lượt là 1,65m và 1,59; Người vùng Hoa Nam, Tây Nam tương đối thấp. chiều cao bình quân của nam nữ ở đó lần lượt là 1,65m và 1,55m.
4. Khung ngực:
Khung ngực, thường gọi là bộ ngực, nó bao gồm bộ phận dưới cổ và trên eo lưng, chủ yếu do xương ngực, xương sườn và tổ chức cơ ... tạo nên. Khung ngực bình thường, hai bên cân đối, đối xứng, đường kính trước sau ngắn hơn so với đường kính hai bên trái phải, có dạng hình cái thùng phẳng dẹt, cơ bắp bộ ngực nở nang mà giàu tính đàn hồi, thể hiện rõ một loại hình thể đẹp. Khung ngực khác thường, không những khó coi, mà còn thể hiện tồn tại của bệnh tật. Như:
Đường kính trước sau của khung ngực không đến một nửa đường kính bên trái bên phải, có dạng phẳng dẹt lệch và bộ phận cổ nhỏ dài, xương quai xanh nhô ra, y học gọi ngực đó là "ngực phẳng dẹt" (Ngực lép), nó thể hiện cơ thể rất gầy, cần phải tăng cường bồi dưỡng, cũng có thể là do bệnh mạn tính gây neê, như bệnh lao phổi ... Điều này đòi hỏi phải đến bệnh viện kiểm tra, chẩn đoán và kịp thời điều trị.
Đường kính trước và sau của bộ ngực tăng dài, có khi có thể ngang bằng với đường kính bên trái bên phải, độ nghiêng ở dưới về phía trước của cung xương sườn nâng lên, khe giữa các xương sườn tăng rộng, có khi đầy đặn toàn bộ ngực có hình cái thùng tròn. Y học gọi bộ ngực này là "ngực hình thùng". Ngực này thường thấy ở người bị bệnh hen suyễn nhánh khí quản, bị viêm nhánh khí quản mạn tính gây ra bệnh phúc hơi ở phổi.
Đường kính trước và sau của ngực dài hơn đường kính trái và phải, bộ ngực lồi ra phía trước và lại hẹp như ngực của gà. Y học gọi đây là "ngực gà", lại còn gọi là ngực của bệnh còi xương nữa. Đó là thể chứng riêng của sự thay đổi bộ xương do bệnh còi xương thiếu vitamin D gây nên. Bệnh này phần nhiều thấy ở nhi đồng và thiếu niên.Bộ ngực một bên quá to hoặc quá nhỏ, làm cho hai bên trái và phải của ngực không cân xứng. Nếu bộ ngực một bên quá to (lồi lên cục bộ), chứng tỏ có thể là bị bệnh viêm màng ngực, bệnh ngực hơi ... Nếu một bên ngực nhỏ (lõm cục bộ), chứng tỏ khả năng bị bệnh lao phổi, viêm phổi, bệnh phổi bị suy thoái ... làm cho một bên phổi không căng lên được.
[Tử vi tướng số] Xem Da biết bệnh
Dưới nách mọc mụn mãn đầu khớp xương, chính là tín hiệu báo cho biết ở đoạn dưới của kết tràng có biến chứng bệnh lý là bị bệnh tăng sinh.
XEM BỆNH QUA DA
Da dẻ giống như một "bức tường" chắn, là tuyến phòng thủ thứ nhất duy trì hoạt động sinh lý của cơ thể. Da bảo vệ các cơ quan trong cơ thể, có công năng quan trọng về cảm giác, bài tiết, hô hấp, điều tiết thân nhiệt ... Da lại là "nhân viên báo tin" phục vụ cho sức khoẻ con người. Một số bệnh tật nào đó của cơ thể và nhiều bệnh ngoài da trước khi mắc bệnh và trong quá trình biến đổi bệnh lý, da có thể tuỳ lúc báo tín hiệu các loại bệnh cho con người.
1. Màu da:
Da màu trắng bệch đồng thời răng bị tê, môi miệng, niêm mạc (thông thường là kết mạc mí mắt) có màu trắng bệch, đa số là bị bệnh thiếu máu. Nhưng da đơn thuần màu trắng bệch, nhợt nhạt có trường hợp không nhất định là do thiếu máu, mà như khi bị giá lạnh kích thích, sống lâu trong đêm tối, trong đường hầm hoặc công tác dưới giếng hoặc sống lâu dài trong phòng tối cũng làm cho da nhợt nhạt.
Trên da thấy có lấm chấm các hạt gạo to nhỏ bằng hạt đậu vàng, có hình tròn hoặc hình bầu dục, số ít là bị bệnh lang ben phân tán riêng lẻ có hình đa giác mà không thể dung hoà với nhau được, nếu quan sát kỹ thì thấy ranh giới của lang ben rất rõ ràng, ở chính giữa hơi lõm vào. Đa số lang ben phân bố ở ngực, ở vai, ở bên phía trong chân tau, là những chỗ che kín bởi mặc quần áo. Lang ben dạng lấm chấm thì chủ yếu sinh ra ở người trên 40 tuổi, thường có da dẻ thô ráp, cằn cỗi, thậm chí có cả ở người già những vết chấm đen ... nữa. Các hiện tượng đó đều thuộc về những thay đổi của da đang trên đường suy thoái, không có hại gì cho cơ thể con người. Loại lang ben chấm này không cần chữa, nó chỉ là nhắc nhở mọi người, da đã ở vào thời kỳ suy lão, cần chú ý bảo dưỡng da cho tốt. Nhưng những khối trắng có trên chỗ xương gò má hoặc trên má thì có khả năng là bị bệnh lang ben, hay ít ra cũng có khả năng dự báo trước khi bị bệnh ung thư. Cần phải đề cao cảnh giác.
Trên da thấy có các mảng lang ben màu trắng to nhỏ không đều, hình dạng không như nhau, có ranh giới rõ ràng (sắc tố ranh giới thường hơi sẫm). Đây là bệnh lang ben (Trung y gọi là bạch bác phong) hay còn gọi là bệnh bạch điến. Bệnh này bắt đầu xuất hiện nhiều ở những chỗ hở ra như dễ bị cọ xaá và ánh sáng mặt trời chiếu vào, như ở mặt, cổ, lưng, bụng, mặt tay trước và mu bàn tay, ngón tay ... Nó có thể lâu dài giới hạn ở một chỗ nào đó của thân thể, cũng có thể tự khỏi từng bộ phận. Nhưng đa số bệnh thường dần dần tăng lên nhiều và mở rộng ra. Nói chung, bệnh phát triển nhanh về mùa hè, mùa đông thì phát triển tương đối chậm hoặc ngừng phát triển. Bệnh này ảnh hưởng tới vẻ đẹp, nhưng không ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Da toàn thân có mầu trắng, ngay cả lông cũng trở thành trắng, đó là bị bệnh hoá trắng (bệnh bạch tạng). Bệnh này là một loại bệnh da di truyền, nhiễm sắc thể xấu, da dẻ, lông tóc và con mắt thiếu sắc tố và thường có tiền sử gia truyền.
Da bị vàng, đồng thời phần lòng trắng của mắt cũng bị vàng, phần lớn là bị bệnh viêm gan loại hoàng đản hoặc viêm túi mật, bị sỏi mật và bị bệnh ở tuyến tạng ...
Da có màu đỏ thể hiện rõ hàm lượng hồng cầu rất cao hoặc là có vấn đề về bệnh tim, bệnh gan và bệnh đường ruột.
Da có màu xanh lam, chứng tỏ có khả năng bị mắc bệnh tim và bệnh phổi. Nếu ở bụng có đường vân màu xanh lam, chứng tỏ khả năng bị chứng công năng của màng (cortical) tuyến thượng thận cường đại (tăng quá mức bình thường).
Da có màu đen và các nốt mẩn mầu đen, chứng tỏ có khả năng là bị thiếu chất adrenaline.
Da trở nên đen và thô, thường là tín hiệu nguy hiểm của ung thư dạ dày. Theo thống kê của một số chuyên gia nước ngoài thì trong số những người mắc bệnh ung thư dạ dày có khoảng 1/3 số người lúc chưa thấy có bất kỳ triệu chứng nào của bệnh ung thư dạ dày, da ở các bộ phận khác nhau của họ đã biến thành mầu đen và thô, những chỗ thường thấy nhất là: dưới nách, bẹn và xung quanh rốn, có khi mặt và lòng bàn tay bệnh nhân, da cũng thấy hơi có màu đen. Da bệnh nhân sở dĩ biến thành mầu đen và thô ráp, là do một loại chất của tế bào ung thư tiết ra gây nên. Mặc dù có một số bệnh, phần nhiều như những người bị bệnh khác thường ở tuyến yên, bị bệnh đái tháo đờng, có khi da cũng trở nên đen và thô ráp, nhưng ở những trường hợp đó đều không điển hình như sự thay đổi màu da của bệnh ung thư dạ dày.
Trên da của người già, nhất là trên mặt có một số vết chấm màu nâu, gọi là nốt đốm da mồi, trong y học gọi là sắc tố chất màu nâu. Loại sắc tố này không những bám trên màng tế bào bên ngoài cơ thể, mà nó còn bám trên thành huyết quản, có thể làm huyết quản bị xơ, gây ra cứng động mạch, huyết áp cao, gây tắc cơ tim. Nó còn bám trên tế bào não, làm trí nhớ bị suy giảm, trí tuệ bị trở ngại, bị bệnh phiền muộn và ngu đần. Vì thế nốt đốm da mồi này được người ta coi là một tín hiệu báo cho biết cơ thể bị suy lão, nó sẽ tăng lên nhiều theo tuổi tác tăng, nhưng hàng ngày chú ý bồi dưỡng cơ thể thì cơ thể hạn chế và giảm được những cái đốm da mồi này sinh ra nếu da có đầy đủ thành phần nước, hợp chất selenide (H2Se), vitamin B2, vitamin C, cysteine, pantothenic acid (vitamin B5), citric acid, vitamin p.p, vitamin A, vitamin E... thì đều có thể ức chế được nốt đốm da mồi đó sinh ra. Các chất này có thể lấy được từ gan động vật, men, hoa quả, cam quýt, mật ong, rong biển, sữa bò, đậu, trứng, rau xanh, vừng hạt ...
Ngoài ra, nếu người già bỗng nhiên trong một thời gian ngắn mà mọc nhiều nốt đốm da mồi, thì chứng tỏ khả năng chỗ nào đó trong cơ thể đang ẩn chứa bệnh u ác tính, cần phải đến ngay bệnh viện để kiểm tra thêm, xác minh rõ bệnh để kịp thời điều trị.
2- Mẩn mụn:
Mẩn mụn là một trong những triệu chứng quan trọng của bệnh ngoài da hoặc bệnh toàn thân. Mẩn mụn thường thông qua các hình thức khác nhau riêng có cuủanó như ở chỗ mẩn mụn sinh trường, thời gian mọc mẩn mụn mà truyền ra những tín hiệu của sức khoẻ với bệnh tật của cơ thể như:
Da có mẩn mụn mầu tím, có thể thấy ở bệnh giảm tiểu cầu.
Bề mặt của da và niêm mạc có chấm xuất huyết có vết chấm ứ đọng (dùng ngón tay ấn trên mặt không bị phai mầu) có thể thấy ở bệnh viêm màng não truyền nhiễm.
Trên da thấy có mẩn mụn sắc tố của bệnh nốt ruồi con nhện (ghi chú) có thể thấy ở bệnh sơ cứng gan.
Trên da thấy có nốt đỏ tươi hoặc vết đỏ hơi phù nước (có ở má, thường phân bố đối xứng như con bướm hoặc có dạng con dơi), hiện tượng này có thể thấy ở bệnh mụn nhọt, mẩn mụn đỏ tấy. Bệnh này thấy nhiều ở nữ thanh niên.
Trên da thấy có đám đỏ cố định, có dạng hình tròn, hoặc hình quả trứng gà, ranh giới rõ ràng, hiện tượng này phần lớn là do dùng thuốc bị phản ứng gây ra, là một loại hiện tượng thấy nhiều nhất trong chứng viêm da do uống thuốc, thường xuất hiện lặp đi lặp lại ở môi miệng, da quy đầu, môi âm hộ ...
Trên da thấy phát ban có màu hoa hồng,(sau khi ấn vào thì phai màu), người bị nặng, mẩn mụn có thể chảy máu có thể rách đến lòng bàn tay và gan bàn chân, hiện tượng này thấy nhiều ở bênh thương hàn.
Chỗ nếp nhăn của da thấy có mẩn mụn ngứa, hiện tượng này thường thấy ở bệnh ghẻ ở.
Mẩn mụn có dạng mụn nhọn đầu thấy ở một chỗ, tiếp đó có các mụn nhọt giống như thể ở chỗ khác. Hiện tượng này chứng tỏ khả năng lá lách có bệnh.
Về mùa đông, cẳng chân và vùng lưng mọc mụn ngứa khô cứng, phần nhiều đó là do lỗi của thảm nhiệt điện gây nên.
Mẩn mụn loại nốt ruồi có sắc tố to lên nhanh chóng, biến đổi màu, bên cạnh mẩn mụn có các nốt ruồi vệ tinh tương đối nhỏ, thường là tín hiệu của bệnh ác tính.
Mụn sắc tố phân tán ở thân người vượt quá 25 cái, là dự báo cơ thể có ẩn chứa bệnh khối u nguy hiểm.
Dưới nách mọc mụn mãn đầu khớp xương, chính là tín hiệu báo cho biết ở đoạn dưới của kết tràng có biến chứng bệnh lý là bị bệnh tăng sinh.
Căn cứ vào tin tức cung cấp về thời gian xuất hiện những mẩn mụn, có thể phân biệt được bộ mặt thật của một số bệnh tật nào đó, "thuỷ, hồng, hoa, mụn" bám, thường là cả một xâu chuỗi các từ biểu hiện các dấu hiệu tấy xuất hiện các mẩn mụn sắp xếp theo thủ tục thời gian sau khi đã mắc 6 loại bệnh truyền nhiễm thì bệnh thuỷ đậu (kể cả bệnh phong chẩn truyền nhiễm) phát bệnh ngày thứ nhất thì thấy ngay có mẩn mụn; bệnh tinh hông nhiệt (scaclatin) phát mụn vào ngày thứ hai sau khi trong người đã phát bệnh; các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh đậu mùa (thiên hoa), bệnh sởi (ma chẩn), bệnh sốt phát ban nổi mụn (ban chẩn thương hàn, tức bệnh olmer), bệnh thương hàn v.v... thời gian thấy có mẩn mụn của các bệnh truyền nhiễm này lần lượt xảy ra vào ngày thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 sau khi trong người phát ban.
Ghi chú:Đặc điểm của nốt ruồi con nhện là ở giữa nốt ruồi có một chấm đỏ, xung quanh chiếu ra nhiều sợi dây nhỏ màu đỏ, đường kính nốt ruồi từ 0,2 đến 2cm, dùng vật cứng nhọn, ấn vào giữa nốt ruồi thì mạng nhện sẽ mất ngay, di vật cứng nhọn đó đi rồi, lại thấy xuất hiện trở lại, số lượng nốt ruồi này của mỗi người có khác nhau, người ít chỉ có vài cái, người nhiều có thể có tới mấy trăm cái.
XEM BỆNH QUA DA
Da dẻ giống như một "bức tường" chắn, là tuyến phòng thủ thứ nhất duy trì hoạt động sinh lý của cơ thể. Da bảo vệ các cơ quan trong cơ thể, có công năng quan trọng về cảm giác, bài tiết, hô hấp, điều tiết thân nhiệt ... Da lại là "nhân viên báo tin" phục vụ cho sức khoẻ con người. Một số bệnh tật nào đó của cơ thể và nhiều bệnh ngoài da trước khi mắc bệnh và trong quá trình biến đổi bệnh lý, da có thể tuỳ lúc báo tín hiệu các loại bệnh cho con người.
1. Màu da:
Da màu trắng bệch đồng thời răng bị tê, môi miệng, niêm mạc (thông thường là kết mạc mí mắt) có màu trắng bệch, đa số là bị bệnh thiếu máu. Nhưng da đơn thuần màu trắng bệch, nhợt nhạt có trường hợp không nhất định là do thiếu máu, mà như khi bị giá lạnh kích thích, sống lâu trong đêm tối, trong đường hầm hoặc công tác dưới giếng hoặc sống lâu dài trong phòng tối cũng làm cho da nhợt nhạt.
Trên da thấy có lấm chấm các hạt gạo to nhỏ bằng hạt đậu vàng, có hình tròn hoặc hình bầu dục, số ít là bị bệnh lang ben phân tán riêng lẻ có hình đa giác mà không thể dung hoà với nhau được, nếu quan sát kỹ thì thấy ranh giới của lang ben rất rõ ràng, ở chính giữa hơi lõm vào. Đa số lang ben phân bố ở ngực, ở vai, ở bên phía trong chân tau, là những chỗ che kín bởi mặc quần áo. Lang ben dạng lấm chấm thì chủ yếu sinh ra ở người trên 40 tuổi, thường có da dẻ thô ráp, cằn cỗi, thậm chí có cả ở người già những vết chấm đen ... nữa. Các hiện tượng đó đều thuộc về những thay đổi của da đang trên đường suy thoái, không có hại gì cho cơ thể con người. Loại lang ben chấm này không cần chữa, nó chỉ là nhắc nhở mọi người, da đã ở vào thời kỳ suy lão, cần chú ý bảo dưỡng da cho tốt. Nhưng những khối trắng có trên chỗ xương gò má hoặc trên má thì có khả năng là bị bệnh lang ben, hay ít ra cũng có khả năng dự báo trước khi bị bệnh ung thư. Cần phải đề cao cảnh giác.
Trên da thấy có các mảng lang ben màu trắng to nhỏ không đều, hình dạng không như nhau, có ranh giới rõ ràng (sắc tố ranh giới thường hơi sẫm). Đây là bệnh lang ben (Trung y gọi là bạch bác phong) hay còn gọi là bệnh bạch điến. Bệnh này bắt đầu xuất hiện nhiều ở những chỗ hở ra như dễ bị cọ xaá và ánh sáng mặt trời chiếu vào, như ở mặt, cổ, lưng, bụng, mặt tay trước và mu bàn tay, ngón tay ... Nó có thể lâu dài giới hạn ở một chỗ nào đó của thân thể, cũng có thể tự khỏi từng bộ phận. Nhưng đa số bệnh thường dần dần tăng lên nhiều và mở rộng ra. Nói chung, bệnh phát triển nhanh về mùa hè, mùa đông thì phát triển tương đối chậm hoặc ngừng phát triển. Bệnh này ảnh hưởng tới vẻ đẹp, nhưng không ảnh hưởng đến sức khoẻ.
Da toàn thân có mầu trắng, ngay cả lông cũng trở thành trắng, đó là bị bệnh hoá trắng (bệnh bạch tạng). Bệnh này là một loại bệnh da di truyền, nhiễm sắc thể xấu, da dẻ, lông tóc và con mắt thiếu sắc tố và thường có tiền sử gia truyền.
Da bị vàng, đồng thời phần lòng trắng của mắt cũng bị vàng, phần lớn là bị bệnh viêm gan loại hoàng đản hoặc viêm túi mật, bị sỏi mật và bị bệnh ở tuyến tạng ...
Da có màu đỏ thể hiện rõ hàm lượng hồng cầu rất cao hoặc là có vấn đề về bệnh tim, bệnh gan và bệnh đường ruột.
Da có màu xanh lam, chứng tỏ có khả năng bị mắc bệnh tim và bệnh phổi. Nếu ở bụng có đường vân màu xanh lam, chứng tỏ khả năng bị chứng công năng của màng (cortical) tuyến thượng thận cường đại (tăng quá mức bình thường).
Da có màu đen và các nốt mẩn mầu đen, chứng tỏ có khả năng là bị thiếu chất adrenaline.
Da trở nên đen và thô, thường là tín hiệu nguy hiểm của ung thư dạ dày. Theo thống kê của một số chuyên gia nước ngoài thì trong số những người mắc bệnh ung thư dạ dày có khoảng 1/3 số người lúc chưa thấy có bất kỳ triệu chứng nào của bệnh ung thư dạ dày, da ở các bộ phận khác nhau của họ đã biến thành mầu đen và thô, những chỗ thường thấy nhất là: dưới nách, bẹn và xung quanh rốn, có khi mặt và lòng bàn tay bệnh nhân, da cũng thấy hơi có màu đen. Da bệnh nhân sở dĩ biến thành mầu đen và thô ráp, là do một loại chất của tế bào ung thư tiết ra gây nên. Mặc dù có một số bệnh, phần nhiều như những người bị bệnh khác thường ở tuyến yên, bị bệnh đái tháo đờng, có khi da cũng trở nên đen và thô ráp, nhưng ở những trường hợp đó đều không điển hình như sự thay đổi màu da của bệnh ung thư dạ dày.
Trên da của người già, nhất là trên mặt có một số vết chấm màu nâu, gọi là nốt đốm da mồi, trong y học gọi là sắc tố chất màu nâu. Loại sắc tố này không những bám trên màng tế bào bên ngoài cơ thể, mà nó còn bám trên thành huyết quản, có thể làm huyết quản bị xơ, gây ra cứng động mạch, huyết áp cao, gây tắc cơ tim. Nó còn bám trên tế bào não, làm trí nhớ bị suy giảm, trí tuệ bị trở ngại, bị bệnh phiền muộn và ngu đần. Vì thế nốt đốm da mồi này được người ta coi là một tín hiệu báo cho biết cơ thể bị suy lão, nó sẽ tăng lên nhiều theo tuổi tác tăng, nhưng hàng ngày chú ý bồi dưỡng cơ thể thì cơ thể hạn chế và giảm được những cái đốm da mồi này sinh ra nếu da có đầy đủ thành phần nước, hợp chất selenide (H2Se), vitamin B2, vitamin C, cysteine, pantothenic acid (vitamin B5), citric acid, vitamin p.p, vitamin A, vitamin E... thì đều có thể ức chế được nốt đốm da mồi đó sinh ra. Các chất này có thể lấy được từ gan động vật, men, hoa quả, cam quýt, mật ong, rong biển, sữa bò, đậu, trứng, rau xanh, vừng hạt ...
Ngoài ra, nếu người già bỗng nhiên trong một thời gian ngắn mà mọc nhiều nốt đốm da mồi, thì chứng tỏ khả năng chỗ nào đó trong cơ thể đang ẩn chứa bệnh u ác tính, cần phải đến ngay bệnh viện để kiểm tra thêm, xác minh rõ bệnh để kịp thời điều trị.
2- Mẩn mụn:
Mẩn mụn là một trong những triệu chứng quan trọng của bệnh ngoài da hoặc bệnh toàn thân. Mẩn mụn thường thông qua các hình thức khác nhau riêng có cuủanó như ở chỗ mẩn mụn sinh trường, thời gian mọc mẩn mụn mà truyền ra những tín hiệu của sức khoẻ với bệnh tật của cơ thể như:
Da có mẩn mụn mầu tím, có thể thấy ở bệnh giảm tiểu cầu.
Bề mặt của da và niêm mạc có chấm xuất huyết có vết chấm ứ đọng (dùng ngón tay ấn trên mặt không bị phai mầu) có thể thấy ở bệnh viêm màng não truyền nhiễm.
Trên da thấy có mẩn mụn sắc tố của bệnh nốt ruồi con nhện (ghi chú) có thể thấy ở bệnh sơ cứng gan.
Trên da thấy có nốt đỏ tươi hoặc vết đỏ hơi phù nước (có ở má, thường phân bố đối xứng như con bướm hoặc có dạng con dơi), hiện tượng này có thể thấy ở bệnh mụn nhọt, mẩn mụn đỏ tấy. Bệnh này thấy nhiều ở nữ thanh niên.
Trên da thấy có đám đỏ cố định, có dạng hình tròn, hoặc hình quả trứng gà, ranh giới rõ ràng, hiện tượng này phần lớn là do dùng thuốc bị phản ứng gây ra, là một loại hiện tượng thấy nhiều nhất trong chứng viêm da do uống thuốc, thường xuất hiện lặp đi lặp lại ở môi miệng, da quy đầu, môi âm hộ ...
Trên da thấy phát ban có màu hoa hồng,(sau khi ấn vào thì phai màu), người bị nặng, mẩn mụn có thể chảy máu có thể rách đến lòng bàn tay và gan bàn chân, hiện tượng này thấy nhiều ở bênh thương hàn.
Chỗ nếp nhăn của da thấy có mẩn mụn ngứa, hiện tượng này thường thấy ở bệnh ghẻ ở.
Mẩn mụn có dạng mụn nhọn đầu thấy ở một chỗ, tiếp đó có các mụn nhọt giống như thể ở chỗ khác. Hiện tượng này chứng tỏ khả năng lá lách có bệnh.
Về mùa đông, cẳng chân và vùng lưng mọc mụn ngứa khô cứng, phần nhiều đó là do lỗi của thảm nhiệt điện gây nên.
Mẩn mụn loại nốt ruồi có sắc tố to lên nhanh chóng, biến đổi màu, bên cạnh mẩn mụn có các nốt ruồi vệ tinh tương đối nhỏ, thường là tín hiệu của bệnh ác tính.
Mụn sắc tố phân tán ở thân người vượt quá 25 cái, là dự báo cơ thể có ẩn chứa bệnh khối u nguy hiểm.
Dưới nách mọc mụn mãn đầu khớp xương, chính là tín hiệu báo cho biết ở đoạn dưới của kết tràng có biến chứng bệnh lý là bị bệnh tăng sinh.
Căn cứ vào tin tức cung cấp về thời gian xuất hiện những mẩn mụn, có thể phân biệt được bộ mặt thật của một số bệnh tật nào đó, "thuỷ, hồng, hoa, mụn" bám, thường là cả một xâu chuỗi các từ biểu hiện các dấu hiệu tấy xuất hiện các mẩn mụn sắp xếp theo thủ tục thời gian sau khi đã mắc 6 loại bệnh truyền nhiễm thì bệnh thuỷ đậu (kể cả bệnh phong chẩn truyền nhiễm) phát bệnh ngày thứ nhất thì thấy ngay có mẩn mụn; bệnh tinh hông nhiệt (scaclatin) phát mụn vào ngày thứ hai sau khi trong người đã phát bệnh; các bệnh truyền nhiễm khác như bệnh đậu mùa (thiên hoa), bệnh sởi (ma chẩn), bệnh sốt phát ban nổi mụn (ban chẩn thương hàn, tức bệnh olmer), bệnh thương hàn v.v... thời gian thấy có mẩn mụn của các bệnh truyền nhiễm này lần lượt xảy ra vào ngày thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 sau khi trong người phát ban.
Ghi chú:Đặc điểm của nốt ruồi con nhện là ở giữa nốt ruồi có một chấm đỏ, xung quanh chiếu ra nhiều sợi dây nhỏ màu đỏ, đường kính nốt ruồi từ 0,2 đến 2cm, dùng vật cứng nhọn, ấn vào giữa nốt ruồi thì mạng nhện sẽ mất ngay, di vật cứng nhọn đó đi rồi, lại thấy xuất hiện trở lại, số lượng nốt ruồi này của mỗi người có khác nhau, người ít chỉ có vài cái, người nhiều có thể có tới mấy trăm cái.
Friday, November 28, 2014
[Tử vi tướng số] Xem Cổ biết bệnh
Người ta thường dựa vào cổ to hay nhỏ để nhận xét sự thiện mỹ của con người, nếu cổ của nam giới quá nhỏ làm cho người ta cảm thấy thiếu khí phách của một
Người ta thường dựa vào cổ to hay nhỏ để nhận xét sự thiện mỹ của con người, nếu cổ của nam giới quá nhỏ làm cho người ta cảm thấy thiếu khí phách của một đấng nam nhi vững vàng tràn đầy sinh khí. Thể hiện rõ anh chàng này không có khí thế gây cho nữ nhi cảm giác tin cậy là chỗ dựa có thể đảm bảo được an toàn cho gia đình. Ngược lại, nữ giới thì coi cổ ngọc thon thon làm cái đẹp, đương nhiên nếu cổ mảnh mai dài ngoẵng như cái sào thì làm cho người ta cảm thấy yếu ớt đến nỗi gío thổi bay và như vậy sẽ mất đi cái vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nữ giới.
Nhưng, cái cổ của người ta không những là một tiêu chí của vẻ đẹp cơ thể con người, mà nó còn là cái gương phản chiếu sức khoẻ con người. Điểm này có lẽ người biết không nhiều. Người có cái cổ thô, đem lại cảm giác thân thể cường tráng khoẻ mạnh cho con người, sức đề kháng của những người này rất tốt, khó bị lây bệnh; Những người có cái cổ dài, vì lượng hoạt động của nó vượt xa những người có cổ ngắn và thô, tính đàn hồi và tính dẻo dai của cơ bắp ở bộ phận cổ đều bị cường hoá, nên tương đối ít bị trúng phong. Đương nhiên, cái gọi là cổ thô, nhỏ, dài, ngắn, chủ yếu là nói về sự so sánh với thân thể người đó, giữa hai cá thể khác nhau, không thể so sánh một cách cứng nhắc, chỉ cần tương xứng với cơ thể bản thân mình, thì đó đều là chuyện bình thường. Ngoài ra, mối quan hệ giữa cổ dài, ngắn, to, nhỏ hữu quan nói trên với sức khoẻ con người, chẳng qua chỉ là một loại thống kê theo dõi hiện tượng mà thôi, tính chính xác của nó, còn đợi khoa học chưnbgs minh. Hiện nay, điều mà chúng ta nói ở đây là, quan hệ giữa khối u ở cổ với bệnh tật được chứng minh quan thực tiễn lâm sàng.
Khối u ở cổ là chỉ khối u lớn khác thường với hạch limphô ở cổ, hoặc khối bọc khác thường ở cổ. Bộ phận cổ là nơi phát hiện ra nhiều khối u của cơ thể. Theo tin trong nước, trong các khối u được làm sinh thiết để kiểm tra bệnh lý, khối u ở cổ chiếm8,07%. Bộ phận cổ dễ sinh ra khối u vì cổ là chỗ hội tụ limphô ở đầu vàở các nơi của toàn cơ thể, là đầu mối trong yếu của đường hô hấp và đường tiêu hoá, cũng là cửa khẩu quan trọng ngăn cản các vi sinh vật có hại như vi khuẩn chui vào cơ thể. Ngoài ra, bộ phận cổ là do ba loại tổ chức lớp phôi phát dục tạo thành, dễ phát ra các dị hình bẩm sinh và các khối u. Vì thế, hiểu được phương pháp kiểm tra khối u ở cổ và nguyên nhân bệnh có khả năng phát ra là rất có ích cho việc phát hiện sớm bệnh tật và bảo vệ sức khoẻ.
Phương pháp kiểm tra là: thông qua quan sát và sờ mó để kiểm tra có khối u hoặc cái gì khác thường hay không. Quan sát như thế nào? Người được kiểm tra phải lựa chọn nới có ánh sáng đầy đủ và đều đặn, cởi khuy áo cổ ra, để cho lộ hết cổ, ngồi hoặc đứng thẳng trước gương, đầu ngẩng lên, quan sát kỹ xem ở cổ có khối u khác thường nổi lên không, chú ý cả hai bên cổ xem có cân xứng hay không. Trên cổ người bình thường ở chính giữa có xương mềm giáp trạng lồi lên, gọi là hạch hầu; Ở hai bên, mỗi bên có một đường cơ bắp từ phía trên ngoài hướng xiên vào phía dưới ở bên trong, gọi là cơ núm vú ôm lấy ngực (hung toả nhũ đột cơ) sau đó, quay đầu sang bên trái kiểm tra phía bên phải cổ, quay đầu sang bên phải, kiểm tra phía bên trái cổ. Cuối cùng, dùng một cái gương nhỏ đặt ở sau đầu, chiếu vào cái gương lớn kiểm tra ở một bộ phận phái sau gáy.
Sờ mó kiểm tra như thế nào ? Người được kiểm tra có thể dùng mặt của hai bàn tay theo trình tự trước sau, trên dưới, sờ mó vào các khu vực ở cổ. Sau khi phát hiện có khối u thì cần chú ý đến vị trí nông sâu, mầu da, độ di động, hình dạng, tính chất, độ to nhỏ, số lượng, cảm giác ấn đau của khối u ...
Khi người được kiểm tra quan sát hoặc sờ mó được các khối uở cổ, tiếp đó có thể căn cứ theo độ lớn bé, tính chất của khối u để có nhận xét sơ bộ đối với bệnh tật, để quyết định xem có cần phải đi bệnh viện để kiểm tra kỹ hay không. Ví dụ:
Khi bạn sờ dưới hàm, dưới cằm hoặc bên cạnh cổ thấy khối u hình tròn dẹp, tính trung bình, bề mặt nhẵn bóng, có thể di động, lúc to, lúc nhỏ, khi có khối u ấn nhẹ đau hoặc không đau (đồng thời chỗ miệng, họng, hầu v.v... thường có chứng viêm) thì thường là viêm hạch limphô mạn tính. Nếu khối u đỏ sưng, nóng, đau rõ rệt, thì thường là viêm hạch limphô cấp tính, sau khi bệnh nguyên phát mất đi, thì viêm hạch limphô cấp, mạn tính đều theo đó mà mất đi.
Khi bạn phát hiện mới đầu là hạch limphô sưng to không đau, sau dần dần bị vỡ loét, hình thành từng vết sẹo chi chít và luôn luôn kéo dài ra xung quanh (giống như chuột đào, luôn luôn dưới da hình thành ngòi mụn nhọt, đường hang hốc, lở loét) đó là lao hạch limphô. Bệnh này thấy nhiều ở trẻ em sơ sinh và trẻ em ở tuổi mẫu giáo, những người trên 30 tuổi rất ít bị.
Khi bạn sờ mó vào hai bên khí quản phía dưới trước cổ khi khối u phần lớn là đơn chiếc, có đường ranh giới rõ ràng, bề mặt bóng nhẵn (đặc điểm của nó là có thể di động lên xuống theo họng khi nuốt vào thì phần nhiều là khối u của tuyến giáp trạng).
Khi bạn sờ mó vào tuyến giáp trạng một bên to lên, trở nên cứng, bề ngoài nhấp nhô cao thấp khong phẳng. Khi gần đó còn sờ thấy hạch limphô sưng to, thì phải cảnh giác với khả năng bị ung thư tuyến giáp trạng.
Khi bạn sờ thấy khối u nằm ở chính giữa cổ phía trên hạch hầu, phần nhiều thấy hình tròn, bóng nhẫy (đặc điểm chủ yếu là khi thè lưỡi ra thường thấy nó di chuyển theo lên phía trên), cái đó phần nhiều là sưng cái bọc xương lưỡi giáp trạng.
Khi bạn sờ thấy khối u hình tròn nằm dưới hàm, bóng nhẫy và mềm (đặc điểm là dùng tay ấn có thể làm nó biến dạng, những sau khi nới tay ra thì dần dần lại trở lại nguyên dạng), đó phần nhiều là sưng cái bọc ở dưới da dưới hàm.
Khi bạn sờ thấy khối u cứng rắn nằm ở phía dưới dái tai, có ranh giới rõ ràng, to nhỏ không đều, đó thường là u nhọt hỗn hợp của tuyến nước bọt. Đó là một loại u lành, nhưng có khả năng trở nên xấu.
Khi bạn sờ thấy khối u cứng rắn nằm ở phía dưới dái tai, có ranh giới rõ ràng, to nhỏ không đều, đó thường là u nhọt hỗn hợp của tuyến nước bọt. Đó là một loại u lành, nhưng có khả năng trở nên xấu.
Khi bạn sờ thấy ở cổ có hạch limphô không đau, sưng to, nhiều nhóm, vả lại da bên ngoài bình thường, thì phải cảnh giác với khả năng ung thư tuyến dịch limphô.
Khi bạn ở thấy cổ có hạch limphô sưng to mà không đau, thường thường có kèm theo sốt, gan và lá lách sưng to, da có điểm xuất huyết, chân răng xuất huyết ... thì phải cảnh giác với khả năng bị bệnh máu trắng.
Khi bạn sờ thấy phía trên bên cổ, chỗ lõm trên xương quai xanh, tính chất khối u cứng rắn, bắt đầu là đơn chiếc, ấn không đau, có thể di động, theo sự tăng to tiến triển của khối u, có thể có nhiều u khác nữa hợp thành cụm, thành chuỗi, cố định, mặt ngoài khối u không thấy huyết quản đập thì cần phải cảnh giác với khả năng sưng hạch limphô di chuyển của khối u ác tính.
Mục đích của việc tự kiểm tra bộ phận cổ là để sớm phát hiện ra các khối u, người bình thường có thể 3 tháng kiểm tra kỹ một lần. Người trung niên và người già nếu không trở ngại, nên luyện thành thói quen: sau mỗi ngày ngủ dậy, dùng hai tay sờ nắn vào mặt và cổ, vừa làm cho đầu óc tỉnh táo, tăng thêm tuần hoàn máu ở mặt, lại vừa như là tự kiểm tra một lần đơn giản. Mới đầu, người kiểm tra đối với trường hợp bình thường của cổ có thể không hiểu được, nhưng sau lâu ngày thành quen, hễ thấy có khối u khác thường thì có thể rất nhạy cảm phát hiện ngay và kịp thời mời bác sĩ khám và điều trị.Qua tự kiểm tra nghi có khối u ở cổ, không cần phải lo sợ, có thể đến bệnh viện tìm bác sĩ chuyên khoa khám và điều trị. Theo tin thức tài liệu cho hay, khối u ở cổ có thể do hơn 60 loại bệnh gây ra, dù là u nhọt gây ra, cũng có rất nhiều loại u lành. Nhưng thái độ coi thường khối u ở cổ, coi nó chỉ là viêm hạch limphô thôi và không cho là can hệ gì, điều đó cũng là không đúng. Nếu bạn thấy cổ có mọc khối u lớn nhanh, tính chất cứng rắn, bề ngoài không phẳng, có dạng khớp đốt, độ hoạt động kém, ranh giới không rõ, ấn không đau (khi chèn ép vào thần kinh thì có thấy đau), trường hợp đó thì nhất thiết không được bỏ qua mà phải cảnh giác với khả năng ung thư, phải nhanh chóng đến bệnh viện, kiểm tra xác định rõ tính chất để kịp thời điều trị.
Người ta thường dựa vào cổ to hay nhỏ để nhận xét sự thiện mỹ của con người, nếu cổ của nam giới quá nhỏ làm cho người ta cảm thấy thiếu khí phách của một đấng nam nhi vững vàng tràn đầy sinh khí. Thể hiện rõ anh chàng này không có khí thế gây cho nữ nhi cảm giác tin cậy là chỗ dựa có thể đảm bảo được an toàn cho gia đình. Ngược lại, nữ giới thì coi cổ ngọc thon thon làm cái đẹp, đương nhiên nếu cổ mảnh mai dài ngoẵng như cái sào thì làm cho người ta cảm thấy yếu ớt đến nỗi gío thổi bay và như vậy sẽ mất đi cái vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nữ giới.
Nhưng, cái cổ của người ta không những là một tiêu chí của vẻ đẹp cơ thể con người, mà nó còn là cái gương phản chiếu sức khoẻ con người. Điểm này có lẽ người biết không nhiều. Người có cái cổ thô, đem lại cảm giác thân thể cường tráng khoẻ mạnh cho con người, sức đề kháng của những người này rất tốt, khó bị lây bệnh; Những người có cái cổ dài, vì lượng hoạt động của nó vượt xa những người có cổ ngắn và thô, tính đàn hồi và tính dẻo dai của cơ bắp ở bộ phận cổ đều bị cường hoá, nên tương đối ít bị trúng phong. Đương nhiên, cái gọi là cổ thô, nhỏ, dài, ngắn, chủ yếu là nói về sự so sánh với thân thể người đó, giữa hai cá thể khác nhau, không thể so sánh một cách cứng nhắc, chỉ cần tương xứng với cơ thể bản thân mình, thì đó đều là chuyện bình thường. Ngoài ra, mối quan hệ giữa cổ dài, ngắn, to, nhỏ hữu quan nói trên với sức khoẻ con người, chẳng qua chỉ là một loại thống kê theo dõi hiện tượng mà thôi, tính chính xác của nó, còn đợi khoa học chưnbgs minh. Hiện nay, điều mà chúng ta nói ở đây là, quan hệ giữa khối u ở cổ với bệnh tật được chứng minh quan thực tiễn lâm sàng.
Khối u ở cổ là chỉ khối u lớn khác thường với hạch limphô ở cổ, hoặc khối bọc khác thường ở cổ. Bộ phận cổ là nơi phát hiện ra nhiều khối u của cơ thể. Theo tin trong nước, trong các khối u được làm sinh thiết để kiểm tra bệnh lý, khối u ở cổ chiếm8,07%. Bộ phận cổ dễ sinh ra khối u vì cổ là chỗ hội tụ limphô ở đầu vàở các nơi của toàn cơ thể, là đầu mối trong yếu của đường hô hấp và đường tiêu hoá, cũng là cửa khẩu quan trọng ngăn cản các vi sinh vật có hại như vi khuẩn chui vào cơ thể. Ngoài ra, bộ phận cổ là do ba loại tổ chức lớp phôi phát dục tạo thành, dễ phát ra các dị hình bẩm sinh và các khối u. Vì thế, hiểu được phương pháp kiểm tra khối u ở cổ và nguyên nhân bệnh có khả năng phát ra là rất có ích cho việc phát hiện sớm bệnh tật và bảo vệ sức khoẻ.
Phương pháp kiểm tra là: thông qua quan sát và sờ mó để kiểm tra có khối u hoặc cái gì khác thường hay không. Quan sát như thế nào? Người được kiểm tra phải lựa chọn nới có ánh sáng đầy đủ và đều đặn, cởi khuy áo cổ ra, để cho lộ hết cổ, ngồi hoặc đứng thẳng trước gương, đầu ngẩng lên, quan sát kỹ xem ở cổ có khối u khác thường nổi lên không, chú ý cả hai bên cổ xem có cân xứng hay không. Trên cổ người bình thường ở chính giữa có xương mềm giáp trạng lồi lên, gọi là hạch hầu; Ở hai bên, mỗi bên có một đường cơ bắp từ phía trên ngoài hướng xiên vào phía dưới ở bên trong, gọi là cơ núm vú ôm lấy ngực (hung toả nhũ đột cơ) sau đó, quay đầu sang bên trái kiểm tra phía bên phải cổ, quay đầu sang bên phải, kiểm tra phía bên trái cổ. Cuối cùng, dùng một cái gương nhỏ đặt ở sau đầu, chiếu vào cái gương lớn kiểm tra ở một bộ phận phái sau gáy.
Sờ mó kiểm tra như thế nào ? Người được kiểm tra có thể dùng mặt của hai bàn tay theo trình tự trước sau, trên dưới, sờ mó vào các khu vực ở cổ. Sau khi phát hiện có khối u thì cần chú ý đến vị trí nông sâu, mầu da, độ di động, hình dạng, tính chất, độ to nhỏ, số lượng, cảm giác ấn đau của khối u ...
Khi người được kiểm tra quan sát hoặc sờ mó được các khối uở cổ, tiếp đó có thể căn cứ theo độ lớn bé, tính chất của khối u để có nhận xét sơ bộ đối với bệnh tật, để quyết định xem có cần phải đi bệnh viện để kiểm tra kỹ hay không. Ví dụ:
Khi bạn sờ dưới hàm, dưới cằm hoặc bên cạnh cổ thấy khối u hình tròn dẹp, tính trung bình, bề mặt nhẵn bóng, có thể di động, lúc to, lúc nhỏ, khi có khối u ấn nhẹ đau hoặc không đau (đồng thời chỗ miệng, họng, hầu v.v... thường có chứng viêm) thì thường là viêm hạch limphô mạn tính. Nếu khối u đỏ sưng, nóng, đau rõ rệt, thì thường là viêm hạch limphô cấp tính, sau khi bệnh nguyên phát mất đi, thì viêm hạch limphô cấp, mạn tính đều theo đó mà mất đi.
Khi bạn phát hiện mới đầu là hạch limphô sưng to không đau, sau dần dần bị vỡ loét, hình thành từng vết sẹo chi chít và luôn luôn kéo dài ra xung quanh (giống như chuột đào, luôn luôn dưới da hình thành ngòi mụn nhọt, đường hang hốc, lở loét) đó là lao hạch limphô. Bệnh này thấy nhiều ở trẻ em sơ sinh và trẻ em ở tuổi mẫu giáo, những người trên 30 tuổi rất ít bị.
Khi bạn sờ mó vào hai bên khí quản phía dưới trước cổ khi khối u phần lớn là đơn chiếc, có đường ranh giới rõ ràng, bề mặt bóng nhẵn (đặc điểm của nó là có thể di động lên xuống theo họng khi nuốt vào thì phần nhiều là khối u của tuyến giáp trạng).
Khi bạn sờ mó vào tuyến giáp trạng một bên to lên, trở nên cứng, bề ngoài nhấp nhô cao thấp khong phẳng. Khi gần đó còn sờ thấy hạch limphô sưng to, thì phải cảnh giác với khả năng bị ung thư tuyến giáp trạng.
Khi bạn sờ thấy khối u nằm ở chính giữa cổ phía trên hạch hầu, phần nhiều thấy hình tròn, bóng nhẫy (đặc điểm chủ yếu là khi thè lưỡi ra thường thấy nó di chuyển theo lên phía trên), cái đó phần nhiều là sưng cái bọc xương lưỡi giáp trạng.
Khi bạn sờ thấy khối u hình tròn nằm dưới hàm, bóng nhẫy và mềm (đặc điểm là dùng tay ấn có thể làm nó biến dạng, những sau khi nới tay ra thì dần dần lại trở lại nguyên dạng), đó phần nhiều là sưng cái bọc ở dưới da dưới hàm.
Khi bạn sờ thấy khối u cứng rắn nằm ở phía dưới dái tai, có ranh giới rõ ràng, to nhỏ không đều, đó thường là u nhọt hỗn hợp của tuyến nước bọt. Đó là một loại u lành, nhưng có khả năng trở nên xấu.
Khi bạn sờ thấy khối u cứng rắn nằm ở phía dưới dái tai, có ranh giới rõ ràng, to nhỏ không đều, đó thường là u nhọt hỗn hợp của tuyến nước bọt. Đó là một loại u lành, nhưng có khả năng trở nên xấu.
Khi bạn sờ thấy ở cổ có hạch limphô không đau, sưng to, nhiều nhóm, vả lại da bên ngoài bình thường, thì phải cảnh giác với khả năng ung thư tuyến dịch limphô.
Khi bạn ở thấy cổ có hạch limphô sưng to mà không đau, thường thường có kèm theo sốt, gan và lá lách sưng to, da có điểm xuất huyết, chân răng xuất huyết ... thì phải cảnh giác với khả năng bị bệnh máu trắng.
Khi bạn sờ thấy phía trên bên cổ, chỗ lõm trên xương quai xanh, tính chất khối u cứng rắn, bắt đầu là đơn chiếc, ấn không đau, có thể di động, theo sự tăng to tiến triển của khối u, có thể có nhiều u khác nữa hợp thành cụm, thành chuỗi, cố định, mặt ngoài khối u không thấy huyết quản đập thì cần phải cảnh giác với khả năng sưng hạch limphô di chuyển của khối u ác tính.
Mục đích của việc tự kiểm tra bộ phận cổ là để sớm phát hiện ra các khối u, người bình thường có thể 3 tháng kiểm tra kỹ một lần. Người trung niên và người già nếu không trở ngại, nên luyện thành thói quen: sau mỗi ngày ngủ dậy, dùng hai tay sờ nắn vào mặt và cổ, vừa làm cho đầu óc tỉnh táo, tăng thêm tuần hoàn máu ở mặt, lại vừa như là tự kiểm tra một lần đơn giản. Mới đầu, người kiểm tra đối với trường hợp bình thường của cổ có thể không hiểu được, nhưng sau lâu ngày thành quen, hễ thấy có khối u khác thường thì có thể rất nhạy cảm phát hiện ngay và kịp thời mời bác sĩ khám và điều trị.Qua tự kiểm tra nghi có khối u ở cổ, không cần phải lo sợ, có thể đến bệnh viện tìm bác sĩ chuyên khoa khám và điều trị. Theo tin thức tài liệu cho hay, khối u ở cổ có thể do hơn 60 loại bệnh gây ra, dù là u nhọt gây ra, cũng có rất nhiều loại u lành. Nhưng thái độ coi thường khối u ở cổ, coi nó chỉ là viêm hạch limphô thôi và không cho là can hệ gì, điều đó cũng là không đúng. Nếu bạn thấy cổ có mọc khối u lớn nhanh, tính chất cứng rắn, bề ngoài không phẳng, có dạng khớp đốt, độ hoạt động kém, ranh giới không rõ, ấn không đau (khi chèn ép vào thần kinh thì có thấy đau), trường hợp đó thì nhất thiết không được bỏ qua mà phải cảnh giác với khả năng ung thư, phải nhanh chóng đến bệnh viện, kiểm tra xác định rõ tính chất để kịp thời điều trị.
[Tử vi tướng số] Xem tay đoán bệnh
Mấy năm gần đây, xem bàn tay chẩn đoán bệnh được phát triển rất nhanh, cả trong và ngoài nước đã xuất hiện một loạt chuyên gia xem vân ngón tay, xem vân bàn tay, xem móng ngón tay để chẩn đoán bệnh. Thành tích của họ cũng được xã hội thừa nhận. Hiện nay đã biết rất nhiều bệnh tật có thể phát hiện qua sự thay đổi từ các mặt về màu sắc, vân tay, hình dạng và móng, ngón tay.
Xem tướng tay là một nghề cổ xưa, từ cổ đến kim, từ trong nước đến ngoài nước đều có. Xem tướng bàn tay cho đến ngày nay, lại có sự phát triển mới. Ở phương Tây đã có xem tướng tay bằng điện não. Tuy nhiên, chúng ta không tin xem tướng tay lại dự đoán được vận mệnh của con người, đó là điều mê tín. Chúng ta thấy ông thầy bói xem tướng bàn tay để đoán số mệnh cho người ta nhưng lại không thể xem đúng được tướng tay của mình và dự đoán được số mệnh của mình, điều đó há chẳng phải là rất có ý nghĩa châm biếm đó hay sao ? Nhưng tướng tay tuy không thể đoán biết được số mệnh con ngơừi, nhưng lại có thể quan sát nó mà biết được bệnh tật của con người, đó là điều mà khoa học đã và đang thừa nhận.
Trung y cho rằng, 12 kinh mạch của con người, đại bộ phận hội tụ, ở đầu ngón tay cho nên hễ bị bệnh thì tín hiệu báo bệnh tật thông qua phản ứng của thần kinh, huyết quản và kinh mạch đến với các vân tay. Khoa học hiện đại cho rằng, bản thân cơ thể con người là một thể sinh vật hoàn chỉnh, mỗi một tế bào cấu tạo thành một thể sinh vật đó. Hoặc trong sự sắp xếp chủ thể của mỗi một gien di truyền, đều có mang theo đặc trưng có tính hiện rõ toàn bộ của sinh mệnh con người, nó chứa đựng toàn bộ thông tin của cả một vật tượng (vật ảnh) như mắt, tai, lưỡi. Cho nên nói, vô luận là từ góc độ Trung y học truyền thống, hay là từ góc độ thông tin luận hiện đại, đều có thể chứng thực tay của con người có thể phản ánh tình trạng sức khoẻ của cơ thể. Nghĩa là, xem bàn tay có thể biết được bệnh của con người.
Mấy năm gần đây, xem bàn tay chẩn đoán bệnh được phát triển rất nhanh, cả trong và ngoài nước đã xuất hiện một loạt chuyên gia xem vân ngón tay, xem vân bàn tay, xem móng ngón tay để chẩn đoán bệnh. Thành tích của họ cũng được xã hội thừa nhận. Hiện nay đã biết rất nhiều bệnh tật có thể phát hiện qua sự thay đổi từ các mặt về màu sắc, vân tay, hình dạng và móng, ngón tay ... Cách xem như sau:
1- Xem hình dạng, màu sắc của bàn tay:
Người bình thường thì ngón tay đẫy đà hồng nhuận, chuyển động linh hoạt, co vào duỗi ra như ý, năm ngón tay phối hợp nhịp nhàng. Bàn tay có màu hồng nhạt hoặc màu phấn hồng, sáng nhuận trơn bóng, khí sắc đều đặn. Hễ ngón tay biến dạng hoặc vụng về, mầu sắc bàn tay biến sang sẫm hoặc nhạt, thậm chí thấy có mầu sắc thì tình trạng sức khoẻ tất phải có sự khác thường.
a- Ngón tay, bàn tay biến dạng
Đốt ngón tay cái tương đối ngắn và quá cứng rắn, không dễ uốn cong, hiện tượng này thường thấy ở người có bệnh đau đầu do cao huyết áp, bệnh đau tim và bệnh trúng phong.
Đầu ngón tay trỏ bị cong lệch, khe đốt ngón tay rộng và đường nếp vân phân tán lộn xộn, hiện tượng này thường thấy ở những người do ảnh hưởng của bệnh gan mật mà dẫn tới công năng của tỳ vị thất thường.
Đầu ngón tay giữa bị cong lệch, đốt ngón tay bị hở khe trường hợp như vậy chứng tỏ công năng của tim và ruột non tương đối yếu.
Đầu ngón tay vô danh (ngón đeo nhẫn) bị cong lệch, đốt ngón tay bị hở khe, trường hợp như vậy thường thấy ở những người bị bệnh ở hệ thống tiết niệu và bị suy nhược thần kinh.
Ngón tay út bị cong về một bên và da bàn tay bị khô, trường hợp này thường thấy ở người có công năng tiêu hoá không tốt.
Ngón tay cái và ngón tay trỏ không nhanh chóng tiếp xúc trở lại (người bình thường, tốc độ tiếp xúc của hai ngón tay này khá nhanh), chứng tỏ khả năng vận động của tiểu não mất điều hoà.
Thực chỉ khâu (khâu ngón trỏ) (ghi chú) cao hơn khâu (đồi) các ngón khác, trường hợp này thường thể hiện khả năng bị chứng xuất huyết não.
Ghi chú: Trên bàn tay, các chỗ lồi lên của các chân ngón tay gọi là khâu (đồi), như mẫu chỉ khâu (đồi ngón tay cái), thực chỉ khâu (đồi ngón tay trỏ), trung chỉ khâu (đồi ngón tay giữa) ...
(Hình vẽ)
Ngón tay có hình dùi trống (tức đầu ngón tay to hơn đốt ngón, giống như cái dùi đánh trống), thể hiện có khả năng bệnh tim bẩm sinh hoặc bị bệnh phổi nghiêm trọng, như phổi bị loét có mủ, bị lao phổi, bị ung thư phổi, bị bệnh về tim phổi ... Đó là do thiếu ôxy mạn tính lâu ngày, các tổ chức liên kết đầu cuối ngón tay, ngón chân tăng sinh gây nên.
Bàn tay rũ xuống rã rời hoặc các khớp ngón tay co quắp như chân chim, gọi là "tay hình vuốt", trường hợp này là bệnh teo cơ đang tiến triển ở tay do thần kinh cổ tay của cánh tay trước bị tổn thương gây nên.
Các khớp ngón tay sưng to, da bị teo, các cơ bị teo, hiện tượng này thường thấy ở bệnh tạo keo (giao nguyên tính).
Các khớp ngón tay sưng tấy, hai đầu nhỏ, giữa to giống như cái thoi dệt vải và bị cong tê cứng không thể duỗi thẳng ra được, đau đớn, khi cử độnglại đau nặng hơn, hiện tượng này thường thấy ở người bị viêm khớp do phong thấp.
Gấp xương ở xương ngón tay, say khi khép kín lại thì ngón tay hoàn toàn không thể uốn cong được, nếu biến chứng bệnh lý ở ngón tay cái thì không thể tiếp xúc với bốn ngón tay khác, gọi là bệnh khép kín xương ngón tay, đây là một loại bệnh về xương có tính di truyền hiếm thấy.
Nhắm mắt đứng thẳng, hai tay dang ngang, ngón tay xoè ra, nếu thấy ngón tay hơi bị run, đó là biểu hiện của chứng cơ năng của tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường (cường đại).
Các tế bào của tổ cức dưới da ngón tay bị mất nước, da mặt bàn tay đầu ngón tay bị dăn deo, bị khô lép, giống như tay bị ngâm lâu trong nước (người ta vẫn gọi là "tay phụ nữ giặt quần áo"), hiện tượng này thường thấy ở bệnh đường ruột, dạ dày cấp tính, các chứng ỉa chảy, nôn mửa nhiều lần và đau bụng kịch liệt ...
Cơ bàn tay bị teo nghiêm trọng, mất đi hình dạng vốn có của nó, đặc biệt là cơ đại ngư tế (vùng cá to) và cơ tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) bị teo rõ rệt, làm cho bàn tay trở nên bằng phẳng, giống như bàn tay của con vượn (bị người ta gọi là "bàn tay vượn"), hiện tượng này thường thấy ở những người thần kinh tay bị tổn thương và bị viêm.
Bàn tay bị phù, các ngón tay bị tê liệt, thể hiện khả năng bị bệnh đau tim.
Cả bàn tay trở nên rộng và dày lên, ngón tay thô và gắn, đồng thời xương gò má, xương hàm dưới, xương hàm trước ... đều nhô lên, hiện tượng này thường thấy ở những người lớn bị khối u ở tuyến yên của não.
Da ở bàn tay mọc mụn nước, da bị lột tuột, ngứa, phần nhiều là tay bị nấm, tức tay bị bệnh nấm tay, người ta vẫn thường gọi là bệnh tổ đỉa ở bàn tay.
Trên bàn tay, trên ngón tay có gân xanh (dãn tĩnh mạch) lộ ra, hiện tượng này phần nhiều là biểu hiện trong ruột bị ngừng trệ phân, bí đại tiện.
Da mu bàn tay bị khô dăn deo, các khớp ngón tay bị cứng, không linh hoạt, nếu động vào cái gì, là tay có cảm giác như bị băng lạnh. Một năm bốn mùa đều như thế, đó là bị mắc chứng lạnh giá chân tay, thường thấy ở người già cơ thể suy nhược. Nếu chân tay lạnh giá từng cơn, khi phát ra kèm theo cả các chứng như đau bụng khó chịu, sắc mặt tái xanh, thân vã mồ hôi ... qua những cơn đau đó rồi, vẫn thấy như người bình thường, hiện tượng này thường thấy ở chứng giun đũa.
b- Màu sắc ngón tay, bàn tay bị thay đổi:
Ngón trỏ trắng bợt và nhỏ yếu, chứng tỏ công năng của gan mật hơi kém, những người bị như vậy dễ mỏi mệt, tinh thần thường suy sụp, không phấn chấn được.
Ngón giữa trắng bợt, nhỏ bé và bải hoải rã rời, chứng tỏ công năng của tâm huyết không đủ hoặc bị thiếu máu.
Ngón vô danh trắng bợt và nhỏ bé, chứng tỏ công năng của thận và công năng của hệ thống sinh dục tương đối kém.
Ngón út trắng bợt, nhỏ bé, hiện tượng này, thường thấy ở chứng bệnh tiêu hoá hấp thụ kém hoặc bị những bệnh như đại tiện không thông thoát, bị tiêu chảy ...
Đầu ngón tay hai bàn tay trắng bợt, lạnh giá, chứng tỏ có thể bị bệnh ở dạ dày và ruột mạn tính và có khuynh hướng ung thư dạ dày.
Mầu da tay trở nên sẫm lại thường thấy ở người có chứng thiếu máu, xuất huyết ngầm ... bàn tay có mầu trắng bệch, chứng tỏ phổi bị bệnh hoặc trong người có bộ phận nào đó bị viêm.
Bàn tay có màu xanh lam, thường thấy ở người có chứng bệnh công năng đường ruột bị trở ngại.
Bàn tay có màu xanh biếc, thường thấy ở người tuần hoàn máu bị trở ngại.
Bàn tay có màu xanh lục, chứng tỏ bị thiếu máu hoặc bị bệnh ở tỳ vị.
Bàn tay có màu vàng, thường thấy ở người có chứng bệnh mạn tính.
Bàn tay có màu vàng óng, thường thấy ở người có bệnh gan. Da bàn tay trở nên dày, cứng, nhẵn bóng, khô khốc, có mầu vàng nhạt, đó gọi là "bệnh hoá sừng bàn tay", thường là do di truyền thể hiện rõ ở nhiễm sắc thể, trường hợp này phần lớn phát bệnh ở thời kỳ trẻ em một tuổi, thường có tiền sử gia đình bị mắc chứng bệnh này.
Bàn tay có mầu vàng đất, không bóng, chứng tỏ khả năng bị ung thư.
Bàn tay xuất hiện huyết quản mao dẫn có dạng lưới màu hồng, hiện tượng này thường thấy ở chứng thiếu vitamin C.
Toàn bộ bàn tay có đốm ban màu đỏ xạm hoặc màu tím, thường thấy ở người bị bệnh gan.
Bề mặt bàn tay, nhất là chỗ đại ngư tế (vùng cá lớn) và tiểu ngư (cá nhỏ) và ở đầu ngón tay, da bị sung huyết phát đỏ ra, thường thấy ở người bị xơ cứng gan và ung thư gan. Bàn tay sau khi có màu đỏ, lại dần dần biến sang màu tím sẫm, thường thấy ở người bị đau tim và dự báo bệnh tình đang nặng dần lên.
Người có màu sắc bàn tay quá đỏ, chứng tỏ có khuynh hướng bị trúng phong. Người bị cao huyết áp nếu cả bàn tay có màu đỏ như nước chè, chứng tỏ có thể là điềm báo trước não bị chảy máu.
Da bàn tay non mềm nhuận đỏ như vải vóc, chứng tỏ người đó dễ bị bệnh phong thấp nhiệt hoặc bệnh thống phong.
Tổ chức dưới da bàn tay bị ứ huyết phát ra màu đen pha màu hồng, có màu tím ngắt, thường thấy ở người bị ngất xỉu do bị cảm nhiễm nghiêm trọng...
Trên mặt bàn tay có lấm chấm bàng bạc giống như một số tàn thuốc, thường là tín hiệu của người hút nhiều thuốc lá bị mắc bệnh tim.
Bàn tay có màu đen, thường thấy ở bệnh thận. Giữa bàn tay có màu nâu đen, thường thấy ở người có bệnh dạ dày và ruột.
Từ cổ tay đến chỗ tiểu ngư (vùng cá nhỏ) có màu đen hoặc màu tím sẫm, thường là tín hiệu bị bệnh ở thắt lưng do phong thấp. Khi đó, phía trong mắt cá chân cũng có thể có loại màu như thế.
2- Quan sát vân tay:
Vân tay học là một môn khoa học cổ xưa, theo tài liệu ghi chép, việc ứng dụng vân tay có liên quan ở nước ta đã có hơn 2.000 năm lịch sử, luôn luôn được công nhận là một nước nhận thức và ứng dụng vân tay sớm nhất trên thế giới. Như trong "Đạo huyệt thiên" các văn vật đào được ở Tây An của Tần Giản có ghi chép hiện trường của vụ án điều tra hồ sơ ăn cắp ở "Thủ tích lục xứ". Cho đến nay còn giữ một cái ấn làm bằng đất tượng trưng cho quyền lực của Tiểu chư hầu thời cổ đại của nước ta ở viện bảo tàng Bác cổ Phillu ở Chicago Mỹ có tồn tại vết in vân ngón tay cái, từng đường nét vân in có thể phân biệt được rất rõ ràng. Song, xưa kia vân tay chủ yếu là dùng cho cơ quan tư pháp phá án và cho các nhà tướng số "đoán mệnh", còn bây giờ theo sự phát triển của sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của y học, vân tay đã được dùng rộng rãi để quan sát và chẩn đoán bệnh.
Vân tay thay đổi, trên mức độn nào đó đã phản ánh mức độ sức khoẻ của con người, nhất là một số bệnh có tính di truyền nào đo, có đặc trưng vân tay rất rõ ràng, điểm này đã được các nhà chuyên gia y học và các nhà di truyền học trình bày, phân tích và chứng minh. Muốn biết biểu hiện khác thường của vân tay, cần trước hết phải biết được sự sắp xếp phân bố vân tay bình thường. Vân tay có thể chia ra vân ngón tay và vân bàn tay, dưới đây sẽ lần lượt giới thiệu các đặc điểm của nó.
a- Vân ngón tay. Vân ngón tay thường có thể phân ra ba loại là: Vân tay vòng (hình cái dấu), lại gọi là vân tay hình xoán ốc, vân tay hình vòng là loại hình tròn đồng tâm hoặc loại xoáy ốc, bên dưới, bên trái và bên phải của vân tay này, mỗi cái đều có một cái chạc ba. Vân tay hình cái ky hót rác giống như cái ky sọt, miệng mở ra một phía: hai cái vân tay hình ky này đan vào nhau, nên gọi là vân tay hình ky kép.
Vân tay hình cung là vân tay có dạng cái cung cao thấp khác nhau và đi ngang qua bụng ngón tay, không có chạc ba. Cái gọi là chạc ba chỉ là kết cấu vân ngón tay hình thành hình chữ Y lộn ngược bởi các đường xương sống đến từ ba chiều.
b- Vân bàn tay. Vân bàn tay của người ta có rất nhiều. Ở đây chỉ giới thiệu tóm tắt nội dung những vân tay có quan hệ tương đối gắn bó với sức khoẻ.
+Vân bàn tay gấp: Vân gấp trên bàn tay của người ta thông thường có ba đường: Vân cong ngang xa tâm (còn gọi là vân cong ngang bên phải ở xa), vân cong ngang gần tâm (còn gọi là vân cong ngang bên ở gần), vân cong ngang ngư tế (vùng cá) (lại gọi là đường cong ngư tế, đường cong sinh mệnh). Thường người ta cho rằng trong trường hợp bình thường, vân cong ngang ngư tế (vùng cá), vân cong ngang gần tâm và vân cong ngang xa tâm đều được khắc sâu bởi các đường vân rõ ràng, đầu cuối liền một dải, không bi gián đoạn, là tốt. Nếu lại phân tích tỉ mỉ thì thấy vân cong ngang ở ngư tế vừa to lại sâu và dài, có mầu phần phớt hồng, hơn nữa lại không nhiều và rỗi ren lẫn lộn, đầu đường vân dần dần biến dạng nhỏ đi và mất hẳn, như vậy thì thường biểu thị người khoẻ mạnh, tinh lực đầy đủ, không dễ mắc bệnh. Vân cong ngang gần tâm to, sâu và dài, luôn luôn rõ nét, mầu sắc hồng hào, mịn màng, hơi xệ xuống, và cong thành hình vòng cung rất đẹp, đầu cuối gần lòng bàn tay, có thể chia ra hai nhánh, như vậy thể hiện rõ cơ thể khoẻ mạnh, sức sống dồi dào.
Vân cong ngang xa tâm,sâu và dài rõ rệt, mầu sắc hồng hào, mịn màng, đường nhánh hướng xuống dưới ít, hướng nhánh hướng lên hoặc đường phụ nhiều, như vậy thì chứng tỏ công năng tim của người đó khoẻ mạnh.
Ngoài ba đường vân bàn tay nói trên, còn có một đường vân chỉ sức khoẻ, cũng rất quan trọng đối với việc dự đoán bệnh tật. Nó đi từ vân cong ngang ngư tế (vùng cá) (nhưng lấy không tiếp xúc với vân cong ngang ngư tế làm chuẩn), đi chếch lên hướng ngón tay út, kéo dài đến vân cong ngang xa tâm. Hình dạng của nó không giống các vân cong ngư tế (vùng cá), vân cong ngang xa tâm và vân cong ngang gần tâm. Đường vân càng dài, càng sâu, thì tình trạng sức khoẻ thường càng kém, bởi vì đường vân sức khoẻ, thực ra là sử duụng trái với tên của nó, tác dụng của nó là muốn người ta chú trọng đến cơ thể đang hoặc sắp xảy ra bệnh tật. Nói chung, người có cơ thể khoẻ mạnh rất ít có đường vân sức khoẻ. Đường này, đại đa số thấy ở những người lao động trí óc hoặc những người cơ thể yếu, còn những người lao động chân tay hoặc những người có cơ thể cường tráng thì rất ít có loại đường vân tay này. Vì thế, không có đường vân tay sức khoẻ là tốt, nếu có cũng phải là đường nhỏ, liên tục không gián đoạn, và tốt hơn là không tiếp xúc với đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá).
+ Góc a t d: Trên bàn tay, ngoài ngón cái ra, phần gốc đốt ngón tay của bốn ngón khác (sau khi lao động, sinh ra phần chai cứng), từng đường vân một đều có một chạc ba hình chữ "Y", theo thứ tự gọi là chạc ba ngón tay a, c, b, d còn một bên gần sát cổ tay có một chạc ba hình chữ "Y" lộn ngược rất rõ nét, gọi là "t". Nếu nối liền ba đường chạc a-t-d với nhau thì vị trí của phần t có thể tạo thành một góc kẹp, dùng thước đo góc có thể đo được trị số của góc này, và được tính bằng số độ của hai tay, góc a-t-d của người bình thường nói chung nhỏ hơn 400. Những người có góc kẹp lớn quá 400 thì coi là khác thường. Ở đây điều quyết định số độ to hay nhỏ là t, vị trí chạc ba hình chữ "Y" đảo ngược vượt lên thì độ góc càng lớn, nó là một chỉ tiêu sức khoẻ quan trọng. Đại đa số bệnh nhân nhiễm sắc thể đều có chạc ba hình chữ "Y" đảo ngược có vị trí cao.
Trên đây đã giới thiệu một số đặc điểm của vân ngón tay và vân bàn tay. Sau khi bạn hiểu được vấn đề này thì có thể giám định phân biệt đợc các loại vân tay hình dạng khác nhau. Biểu hiện nổi bật của vân tay có hình dạng khác nhau, đầu tiên là ở bệnh nhiễm sắc thể. Như: Vân hình vòng trong vân ngón tay tăng nhiều, có thể tới từ 8 đến 10 cái, đồng thời có vóc người thấp bé, bị bế kinh nguyên phát, bộ máy sinh dục không phát dục (hình thể hiện ở trẻ con), sau khi trưởng thành không thể sinh đẻ dược, thường thấy ở chứng bệnh tổng hợp về chức năng buồng trứng nguyên phát không tốt, bệnh này là do thiếu đường nhiễm sắc thể X gây nên. Vân hình tròn tăng nhiều có thể đạt tới từ 8 đến 10 cái tạo thành góc a-t-d từ 600 đến 700, một bên tay hoặc cả hai bên tay đều là tay thông xuyên (vân tay ở lòng bàn tay thường chỉ có một đường), tiếng khóc tựa như mèo kêu, đồng thời có kèm theo ngón cái bị cong về phía mu bàn tay, mặt tròn, khoảng cách giữa hai con mắt rộng, mắt chếch xuống phía dưới, da khoé mắt bên trong bị thừa, cằm nhỏ ... có kèm theo bệnh tim bẩm sinh, trường hợp này thường thấy ở chứng bệnh tổng hợp "mèo kêu", bệnh này là do thiếu nhiễm sắc thể số năm do cánh tay ngắn gây nên.
Vân ngón tay thể hiện là các ky sâu chuỗi tăng nhiều, ngón thứ tư, thứ năm có thể có một nửa số là hình ky cong, hình "Y" đảo ngược, t di chuyển vào lòng bàn tay, tạo thành góc a-t-d trên dưới 60-700, vân bàn tay thường là hình thông xuyên tâm. Ngoài vân bàn tay ra, những sự thay đổi tính đặc trưng khác còn có khía ở mắt nhỏ, khoảng giữa hai mắt rộng, khía ở mắt xếch lên trên, sống mũi tẹt, miệng thường hé mở một nửa, lưỡi thường thè lè ra ngoài miệng, trí lực giảm, phát dục chậm, ngồi, đứng, đi nói, đều rất chậm chạp ... Hiện tượng này thường thấy ở những người dạng ngu bẩm sinh. Bệnh này là do cơ thể có thêm một nhiễm sắc thể số 21 gây nên. Nó là bệnh thường thấy nhất do số nhiễm sắc thể khác thường gây nên, trung bình trong số từ 600 đến 800 người thì có mọt người bị bệnh này.
Hiện nay đã chứng thực, tất cả những người bị biến dị nhiễm sắc thể đều có vân tay khác thường. Nhiễm sắc thể được coi là thể tải vật chất di truyền, ở người bình thường đều có 96 đường, chúng còn phối hợp thành 23 đôi, trong đó có 22 đôi là nhiễm sắc thể không đổi, có hình thái và độ to nhỏ giống nhau, còn một đôi là nhiễm sắc thể giới tính có quan hệ tới giới tính. Mấy loại bệnh giới thiệu trên đây đều là vì nhiễm sắc thể khác thường (hoặc nhiều, hoặc ít hoặc tàn khuyết) gây nên. Ngoài ra, rất nhiều bệnh về nhiễm sắc thể đều có sự thay đổi về vân tay mang tính đặc trưng, tuy hình thức mỗi trường hợp có khác nhau, nhưng sự thay đỏi đó đều có những đặc điểm chung dưới đây:
(1) Thông xuyên tay
(2) Hình Y đảo ngược, t di chuyển vào lòng bàn tay, góc a-t-d lớn hơn 600
(3) Vân hình cung tăng lên nhiều
(4) Vân hình vòng tăng lên nhiều
(5) Ngón vô danh và ngón út đều có vân hình ky hót rác ngược lại
(6) Vân hình ky kép tăng lên nhiều
Các đặc điểm này rất dễ nhận biết, có khác nhau rất lớn so với vân tay bình thường, khi các đặc điểm khác biểu hiện không rõ thì việc xem vân tay lại càng có ý nghĩa thể hiện bệnh tật, vì thế hơi chú ý một tý sẽ có thể kịp thời phát hiện và điều trị được sớm.
Ngoài bệnh nhiễm sắc thể gây ra vân tay khác thường, hiện nay người ta còn phát hiện một số bệnh tật khác, cũng có thể thấy vân tay khác thường như:
Một công trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu bệnh ung thư của trường Đại học Hawai ở Mỹ phát hiện, những phụ nữ có hình vân tay ở ngón tay trái mở miệng về bên phải tương đối nhiều, thì khả năng bị ung thư vú tương đôi cao.
Vân ngón tay của cả mười ngón đều là vân bình cái ky xúc rác và là tay thông xuyên, trường hợp này thì trong gia tộc của họ thông thường có người bị bệnh di truyền của chứng hậu di như có thể gây ra trí lực suy thoái, phát dục chậm v.v... Người mắc bệnh di truyền này, có lúc còn có thể có một loại đặc trưng vân tay. Trên ngón tay út chỉ có một con đường gấp nhăn, chứ không có hai nếp nhăn giống như người bình thường. Những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, bệnh điên, bệnh đái tháo đường, bệnh nấm da trâu, bệnh phong, bệnh thanh manh (bệnh mù mắt xanh) bẩm sinh là những bệnh có tính di truyền, trên bàn tay của họ, cũng có thể có hiện tượng vân tay đại loại như vậy.
Ngoài ra, còn có người phát hiện, thấy vân tay rất rõ ràng, chứng tỏ hai lá van tim có khả năng bị tổn thương, vân tay chủ yếu là loại vân hình vòng, hiện tượng này chứng tỏ sau này có khả năng phát triển thành chứng ngây ngô, đần độn của tuổi già.
Trên đây đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa vân ray, góc a-t-d khác thường với bệnh tật. Dưới đây chúng ta lại xem quan hệ giữa vân bàn tay với bệnh tật.
(1) Vân cong ngang ngư tế vùng cá.
Khởi điểm của vân cong ngang ngư tế (vùng cá), bị một số đường vân dọc cắt đứt, trên vân cong ngang ngư tế (vùng cá) và vân cong ngang gần lòng bàn tay (gần tâm) có rất nhiều mắt, thường thấy ở bệnh lao phôi.
Đầu cuối vân cong ngang ngư tế (vùng cá) có miệng mở tương đối to, thường thấy ở bệnh phong thấp.
Đầu cuối vân cong ngang ngư tế (vùng cá) giống như hình tam giác, có người lòng bàn tay có hình chữ thập thường thấy ở bệnh đau tim.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) đột nhiên bị cắt ở đầu cuối, giống như lưỡi dao cắt, thường biểu hiện rõ dần theo cùng với sự tăng lên của tuổi tác, dễ mắc bệnh trúng phong (kể cả bệnh não xuất hiện).
Đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) nông và nhạt, vân cong ngang xa tâm và vân cong ngang gần tâm đều có khối nhỏ mầu nâu, dù có dùng tay ấn, màu sắc cũng không thay đổi, hiện tượng này thường thấy ở bệnh xuất huyết não.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) bị cắt ở giữa đường, bất luận ở trường hợp cắt như thế nào, đều có thể coi là tín hiệu nguy hiểm. Nếu chỉ có một bàn tay bị gián đoạn ở giữa thì trường hợp này tương đối nhẹ, nếu cả hai bàn tay đồng thời bị gián đoạn ở giữa cả thì thường biểu thị cơ thể dễ bị bệnh; Nếu ở chỗ gián đoạn (bị cắt giữa) lại xuất hiện vân hình sao, thì thường là tín hiệu sắp có bệnh đột biến. Theo truyền thuyết ở phương Tây, thì vân công ngang đại ngư tế (vùng cá) ở người cha của vũ balê thuộc loại hình dạng này, nên ông bị chết đột nhiên vào tuổi trung niên, vì thế, nếu có vân bàn tay thì cần kịp thời kiểm tra sức khoẻ để đề phòng bệnh khi chưa xảy ra.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) trở nên rộng, thường thấy ở bệnh, bệnh lỵ mạn tính hoặc dinh dưỡng kém.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) không thành vòng cung, lại kéo dài xuống phía dưới bằng đường thẳng hoặc thành hình sóng thì hiện tượng này thường ở bệnh đái tháo đường.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) giữa đường có hình sóng thì thường chứng tỏ là huyết quản tim bị hư yếu, dễ mắc chứng xơ cứng động mạch hoặc tắc cơ tim.
Toàn bộ đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) có dạng hình dây xích, thường biểu thị thể chất hư nhược, dễ sinh bệnh, người có loại vân tay này thì suốtd dời có thể bị các bệnh mạn tính dày vò. Trong các bệnh mạn tính, thường thấy nhiều là những bệnh thuộc hệ thống tiêu hoá dạ dày, ruột ... Nếu phần đầu trên có dạng hình dây xích thì biểu thị tình trạng không khoẻ mạnh vào thời kỳ tuổi ấu thơ và tuổi thanh niên, nếu đầu dưới có dạng hình dây xích thì tình trạng không khoẻ mạnh vào thời kỳ trung niên và tuổi già.
Khởi đầu của vân cong ngang gần lòng bàn tay kéo dài một mạch đến mép bàn tay, thì gọi là "đường Sydnei" (thành phố Sydnei ở Ôxtrâylia phát hiện tương đối nhiều nên đặt tên như vậy). Ở nước ngoài đã có những báo cáo khoa học nói rằng nó có quan hệ tới bệnh máu trắng. Ngay ở trong nước, cũng có người quan sát thấy trong số những bệnh nhân bị máu trắng và bị các loại ung thư thì người có vân tay đường Sydnei rất nhiều. Vì thế, người có vân tay cong đi ngang qua gần lòng bàn tay là đường Sydnei, cần đặc biệt chú ý trong cuộc sống hàng ngày phải tích cực dự phòng chứng bệnh ung thư. (Phương pháp dự phòng có thể xem "ghi chú" ở cuối phần này).
Vân đường cong ngang gần lòng bàn tay kết thúc ở đầu dưới của ngón tay vô danh và ở chỗ xuất hiện một mắt lớn, có thể thể hiện bị bệnh thần kinh đại não, đầu cuối của các đường vân cong ngang gần lòng bàn tay, đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) và đường vân ngang xa lòng bàn tay có các đường vân cắt đứt, hiện tượng này thường thấy ở những người bị bệnh phổi.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay kéo dài xuống dưới theo vùng ngư tế (cá nhỏ), giữa đường bị cắt và sinh ra nhiều đường dọc, đồng thời ở phần chân ngón út sinh ra nhiều đường dọc, trường hợp này thường thấy ở người bị viêm bàng quang.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay to hay nhỏ không đều hoặc nhỏ, hoặc bị cắt, hiện tượng này thường thấy ở bệnh xuất huyết não.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay lúc ẩn lúc hiện, rất mờ nhạt, hiện tượng này rất có thể là bị bệnh ở thần kinh đại não. Vân cong ngang gần lòng bàn tay cong theo hướng chỗ nhô ra của ngón cái, hiện tượng này có thể là bị bệnh tâm thần.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay khi có vân dạng sóng gợn rõ rệt, thường thể hiện là bị bệnh ở hệ thống thần kinh.
Trên vân cong ngang gần tâm có mắt nhỏ thường biểu hiện đại não có bệnh.
Trên vân cong ngang gần tâm xuất hiện chấm đen hoặc vết ố bẩn, trường hợp này có khả năng trong não có khối u.
(3) Vân tay cong ngang xa lòng bàn tay (xa tâm):
Khởi đầu của vân tay công ngang xa tâm có hai đường vân sợi, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh thống phong (đau gió).
Đầu cuối của vân tay cong ngang xa tâm bị cắt thành hình dạng xương sườn thường thấy ở người bị lao phổi.
Vân cong ngang xa tâm ở vị trí phía dưới ngón tay vô danh (ngón đeo nhẫn), khi bị cắt bởi đoạn thẳng thành hai đoạn ngắn và thô, hiện tượng này thường thấy ở người bị cao huyết áp.
Khi đầu dưới vân cong ngang xa tâm có rất nhiều đường đứt đoạn có hình dạng lông, hiện tượng này thường biểu lộ ra ở người có hệ thống huyết quản não bị bệnh.
Vân tay cong ngang xa tâm bị đứt, nếu phía dưới ngón giữa hoặc ngón vô danh có hiện tượng đứt nứt, hơn nữa lại thấy miệng đứt tương đối rộng thì thường thấy ở những người dễ bị bệnh ở hệ thống tuần hoàn máu hoặc hệ thống hô hấp. Nếu phía dưới ngón út có hiện tượng đứt nứt và miệng đứt nứt tương đối to thì chứng tỏ là dễ bị bệnh tật về gan.
Vân cong ngang xa tâm rất mờ nhạt và là hình gợn sóng cong xoắn, có vân bị cắt đứt, giữa vân cong ngang xa tâm với vân cong ngang gần tâm hoặc vân ở ngư tế (vùng cá) có kẹp vào đường xiên, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh về tim.
Trên vân cong ngang xa tâm có đường dọc, hiện tượng này biểu thị dễ bị viêm họng và có khuynh hướng ung thư vòm họng.
Vân cong ngang xa tâm dài, biểu hiện dễ bị bệnh ở ruột và dạ dày do thần kinh.
Trên vân cong ngang xa tâm có mắt nhỏ, thường thấy ở người thần kinh suy nhược.
(4) Đường vân sức khoẻ khác thường:
Chúng ta đã trình bày ở phía trước, đường vân sức khoẻ tốt nhất là không nên có. Đương nhiên, có đường vân sức khoẻ cũng không có nghĩa là phát sinh bệnh tật. Có khi tình trạng cơ thể có lúc tương đối kém, đường vân sức khoẻ luôn luôn sâu thêm, đợi đến khi sức khoẻ được khôi phục, lại trở nên nông và mờ nhạt. Nhưng những đường vân sức khoẻ ngắn và biến sắc thì thường thường là tín hiệu báo động có bệnh nặng, cho nên không nên coi thường đường vân sức khoẻ ngắn. Như:
Ở chính giữa bàn tay có đường vân sức khoẻ ngắn, có thể thấy ở bệnh tim, nếu mầu sắc của nó và vùng phụ cận có màu sắc tối (màu tro nhạt), màu hồng sẫm, mầu nâu, mầu đỏ (mầu phấn hồng nhạt thì hiện tượng này có thể coi là bình thường) ... Trường hợp này thường biểu thị là hệ thống tiêu hoá rất có khả năng bị bệnh.
Đường vân sức khoẻ ngắn và sâu, cắt qua giữa các đường vân cong ngang xa tâm và đường vân cong ngang gần tâm, hiện tượng này thường biểu thị có bệnh ở đại não.
Khi đường sức khoẻ tiếp xúc với đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá), hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh ở huyết quản và ở tim.
Đường vân sức khoẻ xuyên qua đường vân ngang ngư tế (vùng cá), thường thấy ở bệnh suy nhược cả phủ tạng, nhất là bị suy tim.
Khi đường sức khoẻ hình thành đường gạch gạch đứt quãng, thường biểu thị có bệnh ở gan.
Đường vân sức khoẻ có rất nhiều mắt nhỏ và có hình dạng dây xích, thường thấy ở người có bệnh ở hệ thống hô hấp.
Trên đường vân sức khoẻ có lấm chấm màu nâu sẫm, thường thấy ở người bị bệnh nặng, nhất là có khả năng bị ung thư, cần phải cảnh giác.
Chỗ tiếp xúc giữa đường sức khoẻ với đường vân xa tâm có mầu đỏ sẫm, thường thể hiện khả năng bị bệnh tim.
(5) Các vân tay khác thấy có khác thường.
Phía dưới tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) nổi nhô lên và có vân ngang, vân tay sau khi tắm tăng lên nhiều, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh thận.
Chỗ tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) có đường vân ngang hoặc có đường ngắn hình cung, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh đái đường. Phía ngoài tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) có nhiều vân gấp, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh ở đường ruột và dạ dày.
3- Quan sát móng tay.
Móng tay của người ta giống như cái "màn che ánh sáng" có diện tích kích thước khác nhau, được lắp một cách ngay ngắn ở đầu 10 ngón tay. Hình thái móng tay có thể thay đổi theo thời gian, tuỳ theo thời gian đều có thể phản ánh lên tình trạng thay đổi về sinh lý, bệnh lý của cơ thể.
Móng tay được cấu tạo bởi da trên đã hoá sừng rắn chắc. Móng tay của người khoẻ mạnh thể hiện nửa trong suốt, trong có mầu hồng nhạt, mặt bóng nhẵn, phẳng phiu, rắn chắc và có tính đàn hồi nhất định, có độ dày mỏng thích hợp, ăn khớp với hình dạng ngón tay mang móng đó. Móng tay bình thường trung bình dài khoảng 12,8mmm dày độ 0,50 đến 075mm trung bình mỗi tuần dài ra được từ 0,5 đến 1,2mm. Sau khi thay móng hoặc nhổ bỏ, cần thời gian 100 ngày mới có thể hoàn toàn mọc ra hết. Móng tay về mùa hè dài ra tương đối nhanh, ban ngày dài nhanh hơn ban đêm, móng tay nam dài nhanh hơn móng tay nữ, móng tay thanh niên, người lớn dài nhanh hơn của trẻ em và người già. Nếu quan sát kỹ móng tay, còn có thể thấy ở phía phần chân móng tay của ngón cái và ngón trỏ có cùng mầu nhạt hình mặt trăng mới mọc, gọi là cung bán nguyệt (lại gọi là hình bán nguyệt, móng tay hình bán nguyệt). Cung bán nguyệt trong trường hợp bình thường chiếm chừng 1/5 tổng số móng tay, ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh giảm dần, ngón út thì bịt kín toàn bộ. Cung bán nguyệt quá nhỏ, quá to hoặc khác thường, chứng tỏ trong người có bệnh hoặc công năng của cơ quan nội tạng nào đó kém.
Sau khi hiểu được các đặc trưng đó của móng tay, bạn có thể từ trông thấy sự thay đổi khác thường của móng tay mà quan sát biết được bệnh tật. Cách quan sát như sau:
1. Quan sát hình dạng của móng tay.
Móng tay trở nên mỏng, chính giữa lõm xuống, bên cạnh vểnh lên như cái thìa con, gọi là móng tay hình thìa, cũng gọi là móng tay ngược (kiểm ngihệm móng tay xem có lõm vào trong không, có thể đặt móng tay nằm ngang trên bàn) giỏ từng giọt nước lên bề mặt móng tay, nếu giọt nước không tràn ra, tức là móng tay hình thìa). Móng tay hình thìa thường thấy ở những người bị các chứng bệnh như thiếu máu do huyết sắc tố thấp, phong thấp nhiệt, bệnh giun móc, giang mai, bị nhiễm khuẩn và công năng tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường.
Móng tay trở nên mỏng, móng tay sinh trưởng chậm, thô ráp, nhiễm vàng, hiện tượng này thường thấy ở những người bị bệnh đái tháo đường, bị bệnh tim, tuần hoàn máu ở đầu ngón tay bị trở ngại, bị thiếu máu ...
Móng tay bị lồi lên, móng tay xung quanh đầu ngón bị cong cuộn, bên ngoài có dạng thuỷ tinh mờ, hiện tượng đó phần lớn là triệu chứng của bệnh nguy kịch, như bệnh phổi phù hơi, bệnh lao, bệnh tim, bệnh viêm kết tràng do loét, bệnh xơ gan và một số bệnh khối u ác tính ...
Móng tay mập, dày, trở nên cứng, không trong suốt, không nhẵn bóng, thường thấy ở những người bị các chứng bệnh như bị chấn thương ở bên ngoài, bị cảm nhiễm nấm, bị bệnh nhiễm mạt bạc (ngân tiết bệnh), bệnh dày móng tay bẩm sinh, bệnh khuyết lá phôi ngoài bẩm sinh. Nếu móng tay trở nên dày, ngả màu vàng, mặt bên cạnh cong quá lớn, không nhẵn bóng và mọc chậm chạp, hiện tượng này thường thấy ở những người bị các chứng bệnh ở hệ thống hô hấp, hệ thống limpha ở tuyến giáp trạng.
Móng tay bị bóc rời (móng tay tách ra khỏi nền móng), bộ phận tách bóc ra có màu vàng hoặc màu trắng, hiện tượng này thấy nhiều ở các bệnh viêm da do ánh sáng, bệnh blind máu; Móng tay bị tách ra từng lớp như các mảnh vân mẫu, hiện tượng này có thể thấy ở bệnh thiếu máu nặng do thiếu sắc tố. Từ chỗ mép phân ly, móng bong ra, dần dần tách ra khỏi bàn móng, nói chung không quá nửa bàn móng, trường hợp này thường thấy xuất hiện ở những người bị viêm rãnh móng tay, bị bệnh mẩn ngứa, hoặc tay ngâm trong nước nóng và nước xà phòng lâu.
Móng tay bị khô héo, trở nên mỏng, là do dinh dưỡng cục bộ không tốt gây nên, có thể thấy ở những người bị bệnh co giật động mạch đầu chi, bệnh rỗng tuỷ sống hoặc bệnh phong ...
Móng tay có hình tam giác ngược, tức đầu trước móng to, chân móng nhỏ hẹp, chứng tỏ có khuynh hướng bị trúng phong và bị bệnh bại liệt.
Móng tay như dạng quả trám, tức là hai đầu nhỏ, ở giữa to, chứng tỏ công năng huyết quản tim kém, hoặc có khuynh hướng bị bệnh ở tuỷ sống.
Móng tay sinh trưởng chậm rõ ràng, hiện tượng này chứng tỏ bị bệnh nấm da trâu, bị viêm da do thần kinh và một số cơ quan nội tạng nào đó có bệnh, hoặc bản thân móng tay có biến chứng bệnh lý.
Trên móng tay có "rãnh ngang", chứng tỏ dinh dưỡng không tốt, hoặc bị bệnh sởi, bệnh quai bị truyền nhiễm hoặc bệnh tim quấy nhiễu. Trên bản móng tay có vài đường rãnh ngang hình sóng, như bàn giặt quần áo, hiện tượng này phần nhiều là bị bệnh viêm rãnh móng tay hoặc bị tổn thương nền móng tay hoặc phần nền móng tay bị ung nhọt chèn ép gây nên.
Móng tay thế dốc ngược, có người quan sát thấy, khi cơ thể bị đánh một lần, bị thương hoặc bị bệnh nặng, ở phần chân móng tay có thể có dốc ngang, tùy theo sự biến chuyển của thời gian, dốc ngang này dần dần mọc dài ra theo đầu móng tay, phải cần khoảng nửa năm, dốc ngang này có thể dài đến đầu cuối của móng tay và mất đi. Vì thế, móng tay có dốc ngang chứng tỏ bạn có thể đang bị bệnh, cần phải chú ý.
Móng tay có vân dọc, có thể là do thiếu vitamin A hoặc chứng tỏ một cơ quan, tổ chức bộ phận nào đó của cơ thể đang có chứng viêm mạn tính. Nếu cả 10 móng tay có vân dọc đồng thời thì chứng tỏ có thể có triệu chứng của bệnh gan. Nếu chỉ có một móng tay có vân dọc thì khả năng là do bị chấn thương ở ngoài gây nên. Nếu móng tay có vân dọc rõ rệt thì thường thấy ở những người có chứng bệnh tuần hoàn máu xung quanh bị trở ngại, bị nấm rêu và bị chứng lỗ chân lông hoá sừng, vân dọc thành từng chuỗi hột là đặc trưng của bệnh viêm khớp do phong thấp.
Trên móng tay có hố lõm không đều đặn, hiện tượng này phần lớn là do nguyên nhân bị bệnh nấm da trâu.
Không có móng tay.Lúc sinh ra không có móng tay gọi là chứng thiếu móng tay bẩm sinh, hiện tượng này có liên quan đến nhân tố di truyền. Trường hợp về sau này mới thiếu móng tay thì thường là do bản móng tay tổn thương, bị hỏng, hoặc bị chứng viêm tái phát gây ra.
Người có tỷ lệ móng tay hình bán nguyệt ở phần chân móng tay (bình thường chiếm 1/5 toàn bộ móng), như vậy chứng tỏ tình trạng sức khoẻ của người đó tốt. Hình bán nguyệt không có hoặc có nhưng quá nhỏ, như vậy chứng tỏ chức năng tiêu hoá kém, nếu hình bán nguyệt đó lớn quá hoặc vượt quá tỷ lệ bình thường (1/5) thì chứng tỏ người đó bị cao huyết áp hoặc khả năng bị trúng phong. Người có cả 10 ngón tay hoàn toàn không có hình bán nguyệt ở móng thì phần lớn là bị thiếu máu, bị suy nhược thần kinh, bị huyết áp thấp. Người có 10 ngón tay có hình bán nguyệt cùng quá lớn cả thì chứng tỏ trong cơ thể đã mất đi công năng thay thế bù đắp, đã có bệnh mạn tính.
Ấn nhẹ ở mép phía trước móng tay, nếu tổ chức ở phần đáy móng tay có hiện tượng đập theo tim mà sung huyết có tính quy luật thì gọi là nhịp đập của mao huyết quản, phần nhiều do van động mạch chủ đóng không đều, ống dẫn động mạch bẩm sinh chưa đóng, động mạch và tĩnh mạch bị có ngòi, cơ năng tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường ... gây nên.
Phần vành móng bị thay đổi. Nếu vành móng bị sưng đỏ nhẹ (thường xảy ra ở vành móng của một bên cạnh), hiện tượng này thấy nhiều ở thời kỳ đầu của bệnh viêm cơ da, bị mụn phát ban và bệnh da cứng. Nếu vành móng bị sưng tấy đỏ cục bộ, có kèm theo lồi lõm móng tay, mép vành móng bị co lại có thể thấy ở người bị bệnhh đái tháo đường.
Còn móng tay có đốm xám, "phong ban", thường gọi là móng tay xám, đó là do bản thân móng tay có bệnh, y học gọi là nấm móng tay, là do mấy loại nấm ngoài da gây nên, cần sớm điều trị, nếu không kéo dài sẽ gây ra nấm ăn tay, nấm ăn chân và nấm ăn ra cả cơ thể ...
Đầu ngón tay hoặc móng tay biến dạng, đây cũng thường xuyên là biểu hiện của một số bệnh mạn tính.
2. Quan sát màu sắc của móng tay:
Móng tay có màu trắng. Ở đây có mấy trường hợp:
(1) Nếu bề ngoài mống tay thường xuyên có màu trắng thì biểu thị huyết dịch trong cơ thể không đầy đủ, có hiện tượng thiếu máu.
(2) Móng tay có màu trắng như sáp, không nhẵn bóng, đó chính là biểu hiện của các chứng mất máu mạn tính như xuất huyết của bệnh loét hoặc bệnh giun móc.
(3) Đại bộ phận dưới móng tay có màu trắng, màu phấn hồng bình thường giảm đến chỉ còn một đường nhỏ dựa sát đầu ngón tay, như vậy khả năng là triệu chứng của bệnh xơ cứng gan.
(4) Bộ phận đầu xa của móng tay có màu trắng như thuỷ tinh mờ, có mầu nâu hồng hiện tượng này có thể thấy ở chứng công năng thận không toàn vẹn mạn tính mà có chứng cao đạm trong máu.
(5) Trên móng tay có đường màu trắng xuyên ngang, có thể thấy ở bệnh ngộ độc các kim loại như Arsenic (AS) và chì (PG) hoặc thấy ở người bệnh hodgkin (tức bệnh limphô hạt ác tính) và bệnh da thô ráp ...
(6) Trên móng tay có hai đường màu trắng xuyên ngang thường thường thể hiện ở người có chứng hạ protêin trong máu và thấy nhiều ở bệnh thành phần protêin trong máu thấp do bệnh mạn tính gây nên.
(7) Bề mặt bản móng tay có vết đốm hoặc vân trắng hình sợi, đó thường do dinh dưỡng bị trở ngại, phần nhiều là tượng trưng của bệnh gan mạn tính, bệnh xơ gan, bệnh đau thận.
(8) Khi móng tay phẳng có màu trắng xám, đó có thể là triệu chứng của bệnh lao phổi ở vào thời kỳ cuối và bệnh suy tim do phổi gây nên.
Ngoài ra, móng tay trắng hết, có khả năng là do bẩm sinh, có người là do bệnh nghề nghiệp.
Trên móng tay của người già có mảng lốm đốm màu trắng và đường vân dọc xuất hiện có tính chu kỳ, đó là sự thay đổi thường gặp ở móng tay của người già, không phải là trạng thái bệnh, không cần lo lắng.
Móng tay có màu vàng. Ở đây cũng có mấy trường hợp:
(1) Móng tay trở nên vàng, thường biểu thị gan có vấn đề, phần nhiều là viêm gan vàng da, cũng thấy ở người bị bệnh xuất huyết mạn tính.
(2) Cơ năng của tuyến giáp trạng bị suy giảm, bị chứng tổng hợp của bệnh thận và chứng máu có chất ca rô tin, có thể gây ra vàng móng tay, nấm móng tay cũng có thể gây ra vàng móng tay.
(3) Nếu móng tay không chỉ vàng mà biến thành dày, độ cong ở bên cạnh cũng lớn, mà còn sinh trưởng chậm, mỗi tuần mọc thêm ra được dưới 0,2mm, lại có thêm cả chứng phù lim pha nguyên phát và thẩm dịch trong khoang ngực, như vậy là đã bị "chứng tổng hợp vàng móng tay".
(4) Nếu thấy móng tay có hình dạng giống như khuôn đồng vàng đã bị búa đánh vào, đó là do chứng rụng tóc từ tính miễn dịch của cơ thể mà hiện nay chúng ta còn biết rất ít về nó gây nên. Loại bệnh này có thể làm người ta rụng tóc một phần hoặc rụng hết cả tóc.
(5) Nếu thấy xung quanh đầu ngón tay có màu vàng thì phải cảnh giác với bệnh khối u có sắc tố màu đen ác tính.
Ngoài ra, người dùng thuốc tetracycline lâu ngày móng tay cũng có thể có màu vàng, người già do móng tay bị thoái hoá, cũng hơi có màu vàng nhạt, hút thuốc lá lâu ngày sẽ làm móng tay bị hun vàng, các trường hợp này không coi là móng tay ở trạng thái bệnh.
Mống tay có màu đỏ: Căn cứ vào chỗ có màu đỏ khác nhau, có thể phân ra mấy trường hợp như sau:
(1) Gần sát chân móng là màu đỏ ửng, còn ở phần giữa thân móng và phần trước chân móng là màu trắng nhạt, đó phần nhiều là bị bệnh ho hen, bị khạc ra máu, tiếp cận với đầu móng tay, một nửa có màu phấn hồng hoặc màu hồng, còn một nửa tiếp cận với màng bảo vệ là màu trắng, trường hợp đó có khả năng là triệu chứng của bệnh suy thận mạn tính.
(2) Móng tay đều là màu đỏ ửng, đó là tượng trưng cho bệnh lao phổi và bệnh lao ruột thời kỳ đầu (nếu bóp móng tay, khi bỏ tay bóp ra, huyết sắc khôi phục nhanh, là bệnh còn nhẹ, huyết sắc khôi phục chậm là bệnh tình đã tương đối lâu rồi).
(3) Dưới móng tay có lấm chấm đổ hoặc có vân tay màu đỏ dọc, chứng tỏ mao huyết quản bị xuất huyết, có thể là do có bệnh cao huyết áp, bệnh ngoài da, bệnh tim hoặc bị một số bệnh nghiêm trọng nào đó.
(4) Xung quanh móng tay có nốt ban đỏ, chứng tỏ có thể bị viêm cơ da hoặc bị bệnh mụn nhọt, bị nốt ban đỏ toàn thân.
(5) Đầu trước móng tay có giải màu đỏ ngang, chứng tỏ bị viêm đường ruột, dạ dày hoặc màng van tim bị xệ, gián cách tâm thất bị khuyết tổn.
(6) Móng tay có màu đỏ sẫm, ấn thấy biến đổi màu, như vậy chứng tỏ cơ quan nội tạng nào đó bị viêm nặng.
Móng tay có màu tím. Đó là một đặc điểm của bệnh tim và bệnh về huyết dịch, nó phản ánh lên trong máu thiếu ô xy hoặc một số thành phần nào đó có khác thường. Nếu màu tím xuất hiện cùng với màu trắng bệch, có thể thấy ở bệnh co giật động mạch đầu chi.
Móng tay có màu xanh. Người bị đau bụng cấp, chân tay lạnh giá, móng tay bỗng nhiên có màu xanh. Phụ nữ bị thai nhi chết trong bụng, móng tay luôn luôn có màu xanh. Ngoài ra có người từng quan sát thấy, móng tay có vết ứ màu xanh, có thể do bị ngộ độc hoặc bị ung thư thời kỳ đầu. Móng tay có màu xanh tím, thấy nhiều ở những người có bệnh tim bẩm sinh hoặc là bị các bệnh về phổi như viêm phổi lá to, phổi bị phù hơi nặng.
Móng tay có màu xanh lục. Bản móng tay bị xanh lục một phần hoặc bị cả móng, hiện tượng này phần nhiều có quan hệ với việc tiếp xúc lâu với nước xà phòng, với nghề làm thuốc tẩy, có khi cũng có thể bị nhiễm trực khuẩn gây mủ màu xanh lục hoặc khúc khuẩn (khuẩn hình cong) có màu xanh lục gây nên.
Móng tay có màu xanh lam. Những bệnh nhân bị bệnh bạch hầu, viêm phổi, bệnh truyền nhiễm đường ruột cấp tính và thực quản có dị vật làm tắc nghẽn, thì có móng tay màu xanh lam, khi hạch có hình dạng to bằng hạt đậu ở gan bị biến đổi tính chất, sự thay thế chuyển hoá của chất đồng (Cu) trong cơ thể bị rối loạn, có khi cũng có móng tay màu xanh lam; Chứng tím ngắt nguyeê phát ở đường ruột gây nên do ăn loại rau không tươi và bị ngộ độc nitrite, có thể làm cho quá trình ô xy hoá hemoglobin thành phần sắt thấp bình thường hoặc hemoglobin thành phần sắt cao mất đi khả năng tải ô xy, tạo thành thiếu ô xy trong các tổ chức của cơ thể, từ đó mà sinh ra móng tay màu lam và da có màu đỏ tím, nhưng điều cần chú ý là một số thuốc như lưu huỳnh, nitrite, atabrine ... cũng gây ra hiện tượng móng tay có màu xanh lam. Phần chân móng tay có dạng hình bán nguyệt màu xanh lam, người có loại móng tay có dạng hình bán nguyệt màu xanh lam, người có loại móng tay này thì tức là đã có tổn thương về tuần hoàn máu, bị bệnh tim hoặc bị chứng tổng hợp Reynols, có khi cũng có quan hệ với các bệnh viêm khớp do phong thấp hoặc bệnh ung nhọt ban đỏ do bệnh miễn dịch tự thân.
Móng tay có màu xám. Có thể thấy ở những người có bệnh tật có tính toàn thân, bệnh phù niêm dịch, viêm khớp loại phong thấp hoặc bị liệt nửa người. Dinh dưỡng kém, móng tay có thể trở nên dày hoặc teo đi và có sắc tố lắng đọng trên mặt hoặc có màu xám. Khi đầu dưới của móng tay cái có hình dạng gợn sóng màu xám thì thường thấy ở bệnh thanh manh.
Móng tay có màu đen. Đa số là do bị chấn thương gây nên. Bị thương dưới móng tay chảy máu, bắt đầu là màu đỏ tím, lâu thành màu tím đen. Sắc tố màu đen ở nền móng tay tăng thêm, kim thuộc nặng là bạc lắng đọng, có thể làm cho móng tay có màu nâu xạm đen; khi dưới móng hoặc xung quanh móng có viêm ở rãnh móng do nhiễm trực khuẩn gây mủ xanh,móng tay có thể có màu đen hoặc màu xanh lam; công năng thận bị suy kiệt mạn tính, thường thấy đầu xa của móng tay có màu đen rõ rệt; thiếu vitamin B12, công năng màng tuyến thượng thận bị giảm, chứng tổng hợp thịt thừa ở ruột và dạ dày, hoặc trực tiếp lâu ngày với coal tar (hắc ín) chẳng hạn, móng tay có thể trở thành màu xám đen. Ngoài ra, có hai trường hợp cần đặc biệt chú ý, trước hết là khi móng tay có mảng màu đen, màu nâu hoặc có dạng vân tàn nhang, thường xẩy ra ở ngón tay cái và ngón chân cái, nhất là khi thấy móng tay và tổ chức xung quanh móng tay cũng có màu nâu hoặc màu đen, thì đó có nghĩa là bị bệnh phổi u ác tính - khối u sắc tố đen. Thứ hai là, khi phần chân móng tay mọc ra một số đường màu đen (thông thường chỉ dài đến giữa móng), chứng tỏ trong cơ thể đang hoặc đã có bệnh ung thư, cần đến ngay bệnh viện kiểm tra thêm để chẩn đoán chính xác và kịp thời điều trị.
Trên đây đã trình bày mấy phương pháp quan sát móng tay để biết bệnh, quan sát tay để biết bệnh cần phải quan sát cả hai tay trái và phải, không thể dùng công thức bất thành lý là "nam tay trái, nữ tay phải". Khi hai tay đều có hiện tượng khác thường thì càng có ý nghĩa về chẩn đoán. Đồng thời quan sát tay để biết bệnh, còn cần xem xét tới nghề nghiệp và những ham thích trong cuộc sống của bệnh nhân, như xem có phải vì đã từng nhuộm móng tay hoặc bị ảnh hưởng của môi trường làm việc mà làm cho móng tay có những biến đổi khác thường như vậy hay không.
Chỉ có loại trừ các nhân tố bên ngoài, mới có thể có phán đoán chính xác được.
Ghi chú:
Chứng ung thư là bệnh đa phát và là bệnh thường gặp. Các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác dự phòng và điều trị bệnh ung thư. Hiện nay xin giới thiệu biện pháp dự phòng bệnh ung thư của Nhật và Mỹ như sau: để bạn đọc tham khảo.
Mười hai biện pháp dự phòng bệnh ung thư của quan chức Nhật Bản đưa ra là:
1. Dinh dưỡng phải được cân đối, không nên ăn thiên lệch về loại thức ăn gì, không nên chỉ thích thiên lệch về một mùi vị nào đó trong thức ăn.
2. Mỗi ngày ăn uống phải thay đổi, không ăn lâu dài thức ăn đồng dạng hoặc cùng uống một loại thuốc.
3. Tránh ăn quá no, hạn chế đúng mức ăn các chất mỡ.
4. Cố gắng không uống rượu, nhất là không nên uống rượu mạnh.
5. Ít hút thuốc hoặc cai hẳn thuốc.
6. Ăn nhiều thức ăn có chất xenluylô bảo đảm lượng vitamin thích hợp, như vitamin A, C và E ...
7. Ít ăn muối, không ăn thức ăn nóng bỏng quá.
8. Không ăn thức ăn cháy và muối.
9. Không ăn thức ăn bị mốc, bị vữa nát, bị thiu.
10. Tránh tắm nắng có ánh sáng mạnh, không nên đi dưới trời nắng quá.
11. Năng luyện tập thể thao thể dục vừa phải, không nên làm việc quá mệt mỏi.
12. Thường xuyên tắm rửa, bảo đảm thân thể sạch sẽ.
Bảy nguyên tắc phòng ngừa bệnh ung thư do Sở nghiên cứu chứng bệnh ung thư và Viện khoa học Mỹ nêu ra:
1. Không hút các loại thuốc, không hút thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào.
2. Tăng lượng thức ăn có chất xenluylô, giảm số lượng ăn chất mỡ, không ăn tức ăn ô nhiễm, út ăn thức ăn chế biến dưới ình thức muối và thức ăn hun đốt.
3. Nếu uống rượu, cần cố hạn chế, mỗi ngày chỉ nên uống 1 - 2 chén.
4. Cần phải hiểu rõ về nơi mình công tác, tuân thủ quy tắc vệ sinh và an toàn.
5. Loại bỏ những nhu cầu không thuộc điều trị bệnh, không nên tiếp xúc tới tia X.
6. Bảo vệ da, không để ánh sáng mặt trời quá mức rọi vào da thịt.7. Chỉ khi thật cần thiết, mới dùng đến các loại chất kích thích.
Xem tướng tay là một nghề cổ xưa, từ cổ đến kim, từ trong nước đến ngoài nước đều có. Xem tướng bàn tay cho đến ngày nay, lại có sự phát triển mới. Ở phương Tây đã có xem tướng tay bằng điện não. Tuy nhiên, chúng ta không tin xem tướng tay lại dự đoán được vận mệnh của con người, đó là điều mê tín. Chúng ta thấy ông thầy bói xem tướng bàn tay để đoán số mệnh cho người ta nhưng lại không thể xem đúng được tướng tay của mình và dự đoán được số mệnh của mình, điều đó há chẳng phải là rất có ý nghĩa châm biếm đó hay sao ? Nhưng tướng tay tuy không thể đoán biết được số mệnh con ngơừi, nhưng lại có thể quan sát nó mà biết được bệnh tật của con người, đó là điều mà khoa học đã và đang thừa nhận.
Trung y cho rằng, 12 kinh mạch của con người, đại bộ phận hội tụ, ở đầu ngón tay cho nên hễ bị bệnh thì tín hiệu báo bệnh tật thông qua phản ứng của thần kinh, huyết quản và kinh mạch đến với các vân tay. Khoa học hiện đại cho rằng, bản thân cơ thể con người là một thể sinh vật hoàn chỉnh, mỗi một tế bào cấu tạo thành một thể sinh vật đó. Hoặc trong sự sắp xếp chủ thể của mỗi một gien di truyền, đều có mang theo đặc trưng có tính hiện rõ toàn bộ của sinh mệnh con người, nó chứa đựng toàn bộ thông tin của cả một vật tượng (vật ảnh) như mắt, tai, lưỡi. Cho nên nói, vô luận là từ góc độ Trung y học truyền thống, hay là từ góc độ thông tin luận hiện đại, đều có thể chứng thực tay của con người có thể phản ánh tình trạng sức khoẻ của cơ thể. Nghĩa là, xem bàn tay có thể biết được bệnh của con người.
Mấy năm gần đây, xem bàn tay chẩn đoán bệnh được phát triển rất nhanh, cả trong và ngoài nước đã xuất hiện một loạt chuyên gia xem vân ngón tay, xem vân bàn tay, xem móng ngón tay để chẩn đoán bệnh. Thành tích của họ cũng được xã hội thừa nhận. Hiện nay đã biết rất nhiều bệnh tật có thể phát hiện qua sự thay đổi từ các mặt về màu sắc, vân tay, hình dạng và móng, ngón tay ... Cách xem như sau:
1- Xem hình dạng, màu sắc của bàn tay:
Người bình thường thì ngón tay đẫy đà hồng nhuận, chuyển động linh hoạt, co vào duỗi ra như ý, năm ngón tay phối hợp nhịp nhàng. Bàn tay có màu hồng nhạt hoặc màu phấn hồng, sáng nhuận trơn bóng, khí sắc đều đặn. Hễ ngón tay biến dạng hoặc vụng về, mầu sắc bàn tay biến sang sẫm hoặc nhạt, thậm chí thấy có mầu sắc thì tình trạng sức khoẻ tất phải có sự khác thường.
a- Ngón tay, bàn tay biến dạng
Đốt ngón tay cái tương đối ngắn và quá cứng rắn, không dễ uốn cong, hiện tượng này thường thấy ở người có bệnh đau đầu do cao huyết áp, bệnh đau tim và bệnh trúng phong.
Đầu ngón tay trỏ bị cong lệch, khe đốt ngón tay rộng và đường nếp vân phân tán lộn xộn, hiện tượng này thường thấy ở những người do ảnh hưởng của bệnh gan mật mà dẫn tới công năng của tỳ vị thất thường.
Đầu ngón tay giữa bị cong lệch, đốt ngón tay bị hở khe trường hợp như vậy chứng tỏ công năng của tim và ruột non tương đối yếu.
Đầu ngón tay vô danh (ngón đeo nhẫn) bị cong lệch, đốt ngón tay bị hở khe, trường hợp như vậy thường thấy ở những người bị bệnh ở hệ thống tiết niệu và bị suy nhược thần kinh.
Ngón tay út bị cong về một bên và da bàn tay bị khô, trường hợp này thường thấy ở người có công năng tiêu hoá không tốt.
Ngón tay cái và ngón tay trỏ không nhanh chóng tiếp xúc trở lại (người bình thường, tốc độ tiếp xúc của hai ngón tay này khá nhanh), chứng tỏ khả năng vận động của tiểu não mất điều hoà.
Thực chỉ khâu (khâu ngón trỏ) (ghi chú) cao hơn khâu (đồi) các ngón khác, trường hợp này thường thể hiện khả năng bị chứng xuất huyết não.
Ghi chú: Trên bàn tay, các chỗ lồi lên của các chân ngón tay gọi là khâu (đồi), như mẫu chỉ khâu (đồi ngón tay cái), thực chỉ khâu (đồi ngón tay trỏ), trung chỉ khâu (đồi ngón tay giữa) ...
(Hình vẽ)
Ngón tay có hình dùi trống (tức đầu ngón tay to hơn đốt ngón, giống như cái dùi đánh trống), thể hiện có khả năng bệnh tim bẩm sinh hoặc bị bệnh phổi nghiêm trọng, như phổi bị loét có mủ, bị lao phổi, bị ung thư phổi, bị bệnh về tim phổi ... Đó là do thiếu ôxy mạn tính lâu ngày, các tổ chức liên kết đầu cuối ngón tay, ngón chân tăng sinh gây nên.
Bàn tay rũ xuống rã rời hoặc các khớp ngón tay co quắp như chân chim, gọi là "tay hình vuốt", trường hợp này là bệnh teo cơ đang tiến triển ở tay do thần kinh cổ tay của cánh tay trước bị tổn thương gây nên.
Các khớp ngón tay sưng to, da bị teo, các cơ bị teo, hiện tượng này thường thấy ở bệnh tạo keo (giao nguyên tính).
Các khớp ngón tay sưng tấy, hai đầu nhỏ, giữa to giống như cái thoi dệt vải và bị cong tê cứng không thể duỗi thẳng ra được, đau đớn, khi cử độnglại đau nặng hơn, hiện tượng này thường thấy ở người bị viêm khớp do phong thấp.
Gấp xương ở xương ngón tay, say khi khép kín lại thì ngón tay hoàn toàn không thể uốn cong được, nếu biến chứng bệnh lý ở ngón tay cái thì không thể tiếp xúc với bốn ngón tay khác, gọi là bệnh khép kín xương ngón tay, đây là một loại bệnh về xương có tính di truyền hiếm thấy.
Nhắm mắt đứng thẳng, hai tay dang ngang, ngón tay xoè ra, nếu thấy ngón tay hơi bị run, đó là biểu hiện của chứng cơ năng của tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường (cường đại).
Các tế bào của tổ cức dưới da ngón tay bị mất nước, da mặt bàn tay đầu ngón tay bị dăn deo, bị khô lép, giống như tay bị ngâm lâu trong nước (người ta vẫn gọi là "tay phụ nữ giặt quần áo"), hiện tượng này thường thấy ở bệnh đường ruột, dạ dày cấp tính, các chứng ỉa chảy, nôn mửa nhiều lần và đau bụng kịch liệt ...
Cơ bàn tay bị teo nghiêm trọng, mất đi hình dạng vốn có của nó, đặc biệt là cơ đại ngư tế (vùng cá to) và cơ tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) bị teo rõ rệt, làm cho bàn tay trở nên bằng phẳng, giống như bàn tay của con vượn (bị người ta gọi là "bàn tay vượn"), hiện tượng này thường thấy ở những người thần kinh tay bị tổn thương và bị viêm.
Bàn tay bị phù, các ngón tay bị tê liệt, thể hiện khả năng bị bệnh đau tim.
Cả bàn tay trở nên rộng và dày lên, ngón tay thô và gắn, đồng thời xương gò má, xương hàm dưới, xương hàm trước ... đều nhô lên, hiện tượng này thường thấy ở những người lớn bị khối u ở tuyến yên của não.
Da ở bàn tay mọc mụn nước, da bị lột tuột, ngứa, phần nhiều là tay bị nấm, tức tay bị bệnh nấm tay, người ta vẫn thường gọi là bệnh tổ đỉa ở bàn tay.
Trên bàn tay, trên ngón tay có gân xanh (dãn tĩnh mạch) lộ ra, hiện tượng này phần nhiều là biểu hiện trong ruột bị ngừng trệ phân, bí đại tiện.
Da mu bàn tay bị khô dăn deo, các khớp ngón tay bị cứng, không linh hoạt, nếu động vào cái gì, là tay có cảm giác như bị băng lạnh. Một năm bốn mùa đều như thế, đó là bị mắc chứng lạnh giá chân tay, thường thấy ở người già cơ thể suy nhược. Nếu chân tay lạnh giá từng cơn, khi phát ra kèm theo cả các chứng như đau bụng khó chịu, sắc mặt tái xanh, thân vã mồ hôi ... qua những cơn đau đó rồi, vẫn thấy như người bình thường, hiện tượng này thường thấy ở chứng giun đũa.
b- Màu sắc ngón tay, bàn tay bị thay đổi:
Ngón trỏ trắng bợt và nhỏ yếu, chứng tỏ công năng của gan mật hơi kém, những người bị như vậy dễ mỏi mệt, tinh thần thường suy sụp, không phấn chấn được.
Ngón giữa trắng bợt, nhỏ bé và bải hoải rã rời, chứng tỏ công năng của tâm huyết không đủ hoặc bị thiếu máu.
Ngón vô danh trắng bợt và nhỏ bé, chứng tỏ công năng của thận và công năng của hệ thống sinh dục tương đối kém.
Ngón út trắng bợt, nhỏ bé, hiện tượng này, thường thấy ở chứng bệnh tiêu hoá hấp thụ kém hoặc bị những bệnh như đại tiện không thông thoát, bị tiêu chảy ...
Đầu ngón tay hai bàn tay trắng bợt, lạnh giá, chứng tỏ có thể bị bệnh ở dạ dày và ruột mạn tính và có khuynh hướng ung thư dạ dày.
Mầu da tay trở nên sẫm lại thường thấy ở người có chứng thiếu máu, xuất huyết ngầm ... bàn tay có mầu trắng bệch, chứng tỏ phổi bị bệnh hoặc trong người có bộ phận nào đó bị viêm.
Bàn tay có màu xanh lam, thường thấy ở người có chứng bệnh công năng đường ruột bị trở ngại.
Bàn tay có màu xanh biếc, thường thấy ở người tuần hoàn máu bị trở ngại.
Bàn tay có màu xanh lục, chứng tỏ bị thiếu máu hoặc bị bệnh ở tỳ vị.
Bàn tay có màu vàng, thường thấy ở người có chứng bệnh mạn tính.
Bàn tay có màu vàng óng, thường thấy ở người có bệnh gan. Da bàn tay trở nên dày, cứng, nhẵn bóng, khô khốc, có mầu vàng nhạt, đó gọi là "bệnh hoá sừng bàn tay", thường là do di truyền thể hiện rõ ở nhiễm sắc thể, trường hợp này phần lớn phát bệnh ở thời kỳ trẻ em một tuổi, thường có tiền sử gia đình bị mắc chứng bệnh này.
Bàn tay có mầu vàng đất, không bóng, chứng tỏ khả năng bị ung thư.
Bàn tay xuất hiện huyết quản mao dẫn có dạng lưới màu hồng, hiện tượng này thường thấy ở chứng thiếu vitamin C.
Toàn bộ bàn tay có đốm ban màu đỏ xạm hoặc màu tím, thường thấy ở người bị bệnh gan.
Bề mặt bàn tay, nhất là chỗ đại ngư tế (vùng cá lớn) và tiểu ngư (cá nhỏ) và ở đầu ngón tay, da bị sung huyết phát đỏ ra, thường thấy ở người bị xơ cứng gan và ung thư gan. Bàn tay sau khi có màu đỏ, lại dần dần biến sang màu tím sẫm, thường thấy ở người bị đau tim và dự báo bệnh tình đang nặng dần lên.
Người có màu sắc bàn tay quá đỏ, chứng tỏ có khuynh hướng bị trúng phong. Người bị cao huyết áp nếu cả bàn tay có màu đỏ như nước chè, chứng tỏ có thể là điềm báo trước não bị chảy máu.
Da bàn tay non mềm nhuận đỏ như vải vóc, chứng tỏ người đó dễ bị bệnh phong thấp nhiệt hoặc bệnh thống phong.
Tổ chức dưới da bàn tay bị ứ huyết phát ra màu đen pha màu hồng, có màu tím ngắt, thường thấy ở người bị ngất xỉu do bị cảm nhiễm nghiêm trọng...
Trên mặt bàn tay có lấm chấm bàng bạc giống như một số tàn thuốc, thường là tín hiệu của người hút nhiều thuốc lá bị mắc bệnh tim.
Bàn tay có màu đen, thường thấy ở bệnh thận. Giữa bàn tay có màu nâu đen, thường thấy ở người có bệnh dạ dày và ruột.
Từ cổ tay đến chỗ tiểu ngư (vùng cá nhỏ) có màu đen hoặc màu tím sẫm, thường là tín hiệu bị bệnh ở thắt lưng do phong thấp. Khi đó, phía trong mắt cá chân cũng có thể có loại màu như thế.
2- Quan sát vân tay:
Vân tay học là một môn khoa học cổ xưa, theo tài liệu ghi chép, việc ứng dụng vân tay có liên quan ở nước ta đã có hơn 2.000 năm lịch sử, luôn luôn được công nhận là một nước nhận thức và ứng dụng vân tay sớm nhất trên thế giới. Như trong "Đạo huyệt thiên" các văn vật đào được ở Tây An của Tần Giản có ghi chép hiện trường của vụ án điều tra hồ sơ ăn cắp ở "Thủ tích lục xứ". Cho đến nay còn giữ một cái ấn làm bằng đất tượng trưng cho quyền lực của Tiểu chư hầu thời cổ đại của nước ta ở viện bảo tàng Bác cổ Phillu ở Chicago Mỹ có tồn tại vết in vân ngón tay cái, từng đường nét vân in có thể phân biệt được rất rõ ràng. Song, xưa kia vân tay chủ yếu là dùng cho cơ quan tư pháp phá án và cho các nhà tướng số "đoán mệnh", còn bây giờ theo sự phát triển của sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của y học, vân tay đã được dùng rộng rãi để quan sát và chẩn đoán bệnh.
Vân tay thay đổi, trên mức độn nào đó đã phản ánh mức độ sức khoẻ của con người, nhất là một số bệnh có tính di truyền nào đo, có đặc trưng vân tay rất rõ ràng, điểm này đã được các nhà chuyên gia y học và các nhà di truyền học trình bày, phân tích và chứng minh. Muốn biết biểu hiện khác thường của vân tay, cần trước hết phải biết được sự sắp xếp phân bố vân tay bình thường. Vân tay có thể chia ra vân ngón tay và vân bàn tay, dưới đây sẽ lần lượt giới thiệu các đặc điểm của nó.
a- Vân ngón tay. Vân ngón tay thường có thể phân ra ba loại là: Vân tay vòng (hình cái dấu), lại gọi là vân tay hình xoán ốc, vân tay hình vòng là loại hình tròn đồng tâm hoặc loại xoáy ốc, bên dưới, bên trái và bên phải của vân tay này, mỗi cái đều có một cái chạc ba. Vân tay hình cái ky hót rác giống như cái ky sọt, miệng mở ra một phía: hai cái vân tay hình ky này đan vào nhau, nên gọi là vân tay hình ky kép.
Vân tay hình cung là vân tay có dạng cái cung cao thấp khác nhau và đi ngang qua bụng ngón tay, không có chạc ba. Cái gọi là chạc ba chỉ là kết cấu vân ngón tay hình thành hình chữ Y lộn ngược bởi các đường xương sống đến từ ba chiều.
b- Vân bàn tay. Vân bàn tay của người ta có rất nhiều. Ở đây chỉ giới thiệu tóm tắt nội dung những vân tay có quan hệ tương đối gắn bó với sức khoẻ.
+Vân bàn tay gấp: Vân gấp trên bàn tay của người ta thông thường có ba đường: Vân cong ngang xa tâm (còn gọi là vân cong ngang bên phải ở xa), vân cong ngang gần tâm (còn gọi là vân cong ngang bên ở gần), vân cong ngang ngư tế (vùng cá) (lại gọi là đường cong ngư tế, đường cong sinh mệnh). Thường người ta cho rằng trong trường hợp bình thường, vân cong ngang ngư tế (vùng cá), vân cong ngang gần tâm và vân cong ngang xa tâm đều được khắc sâu bởi các đường vân rõ ràng, đầu cuối liền một dải, không bi gián đoạn, là tốt. Nếu lại phân tích tỉ mỉ thì thấy vân cong ngang ở ngư tế vừa to lại sâu và dài, có mầu phần phớt hồng, hơn nữa lại không nhiều và rỗi ren lẫn lộn, đầu đường vân dần dần biến dạng nhỏ đi và mất hẳn, như vậy thì thường biểu thị người khoẻ mạnh, tinh lực đầy đủ, không dễ mắc bệnh. Vân cong ngang gần tâm to, sâu và dài, luôn luôn rõ nét, mầu sắc hồng hào, mịn màng, hơi xệ xuống, và cong thành hình vòng cung rất đẹp, đầu cuối gần lòng bàn tay, có thể chia ra hai nhánh, như vậy thể hiện rõ cơ thể khoẻ mạnh, sức sống dồi dào.
Vân cong ngang xa tâm,sâu và dài rõ rệt, mầu sắc hồng hào, mịn màng, đường nhánh hướng xuống dưới ít, hướng nhánh hướng lên hoặc đường phụ nhiều, như vậy thì chứng tỏ công năng tim của người đó khoẻ mạnh.
Ngoài ba đường vân bàn tay nói trên, còn có một đường vân chỉ sức khoẻ, cũng rất quan trọng đối với việc dự đoán bệnh tật. Nó đi từ vân cong ngang ngư tế (vùng cá) (nhưng lấy không tiếp xúc với vân cong ngang ngư tế làm chuẩn), đi chếch lên hướng ngón tay út, kéo dài đến vân cong ngang xa tâm. Hình dạng của nó không giống các vân cong ngư tế (vùng cá), vân cong ngang xa tâm và vân cong ngang gần tâm. Đường vân càng dài, càng sâu, thì tình trạng sức khoẻ thường càng kém, bởi vì đường vân sức khoẻ, thực ra là sử duụng trái với tên của nó, tác dụng của nó là muốn người ta chú trọng đến cơ thể đang hoặc sắp xảy ra bệnh tật. Nói chung, người có cơ thể khoẻ mạnh rất ít có đường vân sức khoẻ. Đường này, đại đa số thấy ở những người lao động trí óc hoặc những người cơ thể yếu, còn những người lao động chân tay hoặc những người có cơ thể cường tráng thì rất ít có loại đường vân tay này. Vì thế, không có đường vân tay sức khoẻ là tốt, nếu có cũng phải là đường nhỏ, liên tục không gián đoạn, và tốt hơn là không tiếp xúc với đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá).
+ Góc a t d: Trên bàn tay, ngoài ngón cái ra, phần gốc đốt ngón tay của bốn ngón khác (sau khi lao động, sinh ra phần chai cứng), từng đường vân một đều có một chạc ba hình chữ "Y", theo thứ tự gọi là chạc ba ngón tay a, c, b, d còn một bên gần sát cổ tay có một chạc ba hình chữ "Y" lộn ngược rất rõ nét, gọi là "t". Nếu nối liền ba đường chạc a-t-d với nhau thì vị trí của phần t có thể tạo thành một góc kẹp, dùng thước đo góc có thể đo được trị số của góc này, và được tính bằng số độ của hai tay, góc a-t-d của người bình thường nói chung nhỏ hơn 400. Những người có góc kẹp lớn quá 400 thì coi là khác thường. Ở đây điều quyết định số độ to hay nhỏ là t, vị trí chạc ba hình chữ "Y" đảo ngược vượt lên thì độ góc càng lớn, nó là một chỉ tiêu sức khoẻ quan trọng. Đại đa số bệnh nhân nhiễm sắc thể đều có chạc ba hình chữ "Y" đảo ngược có vị trí cao.
Trên đây đã giới thiệu một số đặc điểm của vân ngón tay và vân bàn tay. Sau khi bạn hiểu được vấn đề này thì có thể giám định phân biệt đợc các loại vân tay hình dạng khác nhau. Biểu hiện nổi bật của vân tay có hình dạng khác nhau, đầu tiên là ở bệnh nhiễm sắc thể. Như: Vân hình vòng trong vân ngón tay tăng nhiều, có thể tới từ 8 đến 10 cái, đồng thời có vóc người thấp bé, bị bế kinh nguyên phát, bộ máy sinh dục không phát dục (hình thể hiện ở trẻ con), sau khi trưởng thành không thể sinh đẻ dược, thường thấy ở chứng bệnh tổng hợp về chức năng buồng trứng nguyên phát không tốt, bệnh này là do thiếu đường nhiễm sắc thể X gây nên. Vân hình tròn tăng nhiều có thể đạt tới từ 8 đến 10 cái tạo thành góc a-t-d từ 600 đến 700, một bên tay hoặc cả hai bên tay đều là tay thông xuyên (vân tay ở lòng bàn tay thường chỉ có một đường), tiếng khóc tựa như mèo kêu, đồng thời có kèm theo ngón cái bị cong về phía mu bàn tay, mặt tròn, khoảng cách giữa hai con mắt rộng, mắt chếch xuống phía dưới, da khoé mắt bên trong bị thừa, cằm nhỏ ... có kèm theo bệnh tim bẩm sinh, trường hợp này thường thấy ở chứng bệnh tổng hợp "mèo kêu", bệnh này là do thiếu nhiễm sắc thể số năm do cánh tay ngắn gây nên.
Vân ngón tay thể hiện là các ky sâu chuỗi tăng nhiều, ngón thứ tư, thứ năm có thể có một nửa số là hình ky cong, hình "Y" đảo ngược, t di chuyển vào lòng bàn tay, tạo thành góc a-t-d trên dưới 60-700, vân bàn tay thường là hình thông xuyên tâm. Ngoài vân bàn tay ra, những sự thay đổi tính đặc trưng khác còn có khía ở mắt nhỏ, khoảng giữa hai mắt rộng, khía ở mắt xếch lên trên, sống mũi tẹt, miệng thường hé mở một nửa, lưỡi thường thè lè ra ngoài miệng, trí lực giảm, phát dục chậm, ngồi, đứng, đi nói, đều rất chậm chạp ... Hiện tượng này thường thấy ở những người dạng ngu bẩm sinh. Bệnh này là do cơ thể có thêm một nhiễm sắc thể số 21 gây nên. Nó là bệnh thường thấy nhất do số nhiễm sắc thể khác thường gây nên, trung bình trong số từ 600 đến 800 người thì có mọt người bị bệnh này.
Hiện nay đã chứng thực, tất cả những người bị biến dị nhiễm sắc thể đều có vân tay khác thường. Nhiễm sắc thể được coi là thể tải vật chất di truyền, ở người bình thường đều có 96 đường, chúng còn phối hợp thành 23 đôi, trong đó có 22 đôi là nhiễm sắc thể không đổi, có hình thái và độ to nhỏ giống nhau, còn một đôi là nhiễm sắc thể giới tính có quan hệ tới giới tính. Mấy loại bệnh giới thiệu trên đây đều là vì nhiễm sắc thể khác thường (hoặc nhiều, hoặc ít hoặc tàn khuyết) gây nên. Ngoài ra, rất nhiều bệnh về nhiễm sắc thể đều có sự thay đổi về vân tay mang tính đặc trưng, tuy hình thức mỗi trường hợp có khác nhau, nhưng sự thay đỏi đó đều có những đặc điểm chung dưới đây:
(1) Thông xuyên tay
(2) Hình Y đảo ngược, t di chuyển vào lòng bàn tay, góc a-t-d lớn hơn 600
(3) Vân hình cung tăng lên nhiều
(4) Vân hình vòng tăng lên nhiều
(5) Ngón vô danh và ngón út đều có vân hình ky hót rác ngược lại
(6) Vân hình ky kép tăng lên nhiều
Các đặc điểm này rất dễ nhận biết, có khác nhau rất lớn so với vân tay bình thường, khi các đặc điểm khác biểu hiện không rõ thì việc xem vân tay lại càng có ý nghĩa thể hiện bệnh tật, vì thế hơi chú ý một tý sẽ có thể kịp thời phát hiện và điều trị được sớm.
Ngoài bệnh nhiễm sắc thể gây ra vân tay khác thường, hiện nay người ta còn phát hiện một số bệnh tật khác, cũng có thể thấy vân tay khác thường như:
Một công trình nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu bệnh ung thư của trường Đại học Hawai ở Mỹ phát hiện, những phụ nữ có hình vân tay ở ngón tay trái mở miệng về bên phải tương đối nhiều, thì khả năng bị ung thư vú tương đôi cao.
Vân ngón tay của cả mười ngón đều là vân bình cái ky xúc rác và là tay thông xuyên, trường hợp này thì trong gia tộc của họ thông thường có người bị bệnh di truyền của chứng hậu di như có thể gây ra trí lực suy thoái, phát dục chậm v.v... Người mắc bệnh di truyền này, có lúc còn có thể có một loại đặc trưng vân tay. Trên ngón tay út chỉ có một con đường gấp nhăn, chứ không có hai nếp nhăn giống như người bình thường. Những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, bệnh điên, bệnh đái tháo đường, bệnh nấm da trâu, bệnh phong, bệnh thanh manh (bệnh mù mắt xanh) bẩm sinh là những bệnh có tính di truyền, trên bàn tay của họ, cũng có thể có hiện tượng vân tay đại loại như vậy.
Ngoài ra, còn có người phát hiện, thấy vân tay rất rõ ràng, chứng tỏ hai lá van tim có khả năng bị tổn thương, vân tay chủ yếu là loại vân hình vòng, hiện tượng này chứng tỏ sau này có khả năng phát triển thành chứng ngây ngô, đần độn của tuổi già.
Trên đây đã tập trung phân tích về mối quan hệ giữa vân ray, góc a-t-d khác thường với bệnh tật. Dưới đây chúng ta lại xem quan hệ giữa vân bàn tay với bệnh tật.
(1) Vân cong ngang ngư tế vùng cá.
Khởi điểm của vân cong ngang ngư tế (vùng cá), bị một số đường vân dọc cắt đứt, trên vân cong ngang ngư tế (vùng cá) và vân cong ngang gần lòng bàn tay (gần tâm) có rất nhiều mắt, thường thấy ở bệnh lao phôi.
Đầu cuối vân cong ngang ngư tế (vùng cá) có miệng mở tương đối to, thường thấy ở bệnh phong thấp.
Đầu cuối vân cong ngang ngư tế (vùng cá) giống như hình tam giác, có người lòng bàn tay có hình chữ thập thường thấy ở bệnh đau tim.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) đột nhiên bị cắt ở đầu cuối, giống như lưỡi dao cắt, thường biểu hiện rõ dần theo cùng với sự tăng lên của tuổi tác, dễ mắc bệnh trúng phong (kể cả bệnh não xuất hiện).
Đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) nông và nhạt, vân cong ngang xa tâm và vân cong ngang gần tâm đều có khối nhỏ mầu nâu, dù có dùng tay ấn, màu sắc cũng không thay đổi, hiện tượng này thường thấy ở bệnh xuất huyết não.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) bị cắt ở giữa đường, bất luận ở trường hợp cắt như thế nào, đều có thể coi là tín hiệu nguy hiểm. Nếu chỉ có một bàn tay bị gián đoạn ở giữa thì trường hợp này tương đối nhẹ, nếu cả hai bàn tay đồng thời bị gián đoạn ở giữa cả thì thường biểu thị cơ thể dễ bị bệnh; Nếu ở chỗ gián đoạn (bị cắt giữa) lại xuất hiện vân hình sao, thì thường là tín hiệu sắp có bệnh đột biến. Theo truyền thuyết ở phương Tây, thì vân công ngang đại ngư tế (vùng cá) ở người cha của vũ balê thuộc loại hình dạng này, nên ông bị chết đột nhiên vào tuổi trung niên, vì thế, nếu có vân bàn tay thì cần kịp thời kiểm tra sức khoẻ để đề phòng bệnh khi chưa xảy ra.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) trở nên rộng, thường thấy ở bệnh, bệnh lỵ mạn tính hoặc dinh dưỡng kém.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) không thành vòng cung, lại kéo dài xuống phía dưới bằng đường thẳng hoặc thành hình sóng thì hiện tượng này thường ở bệnh đái tháo đường.
Vân cong ngang ngư tế (vùng cá) giữa đường có hình sóng thì thường chứng tỏ là huyết quản tim bị hư yếu, dễ mắc chứng xơ cứng động mạch hoặc tắc cơ tim.
Toàn bộ đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) có dạng hình dây xích, thường biểu thị thể chất hư nhược, dễ sinh bệnh, người có loại vân tay này thì suốtd dời có thể bị các bệnh mạn tính dày vò. Trong các bệnh mạn tính, thường thấy nhiều là những bệnh thuộc hệ thống tiêu hoá dạ dày, ruột ... Nếu phần đầu trên có dạng hình dây xích thì biểu thị tình trạng không khoẻ mạnh vào thời kỳ tuổi ấu thơ và tuổi thanh niên, nếu đầu dưới có dạng hình dây xích thì tình trạng không khoẻ mạnh vào thời kỳ trung niên và tuổi già.
Khởi đầu của vân cong ngang gần lòng bàn tay kéo dài một mạch đến mép bàn tay, thì gọi là "đường Sydnei" (thành phố Sydnei ở Ôxtrâylia phát hiện tương đối nhiều nên đặt tên như vậy). Ở nước ngoài đã có những báo cáo khoa học nói rằng nó có quan hệ tới bệnh máu trắng. Ngay ở trong nước, cũng có người quan sát thấy trong số những bệnh nhân bị máu trắng và bị các loại ung thư thì người có vân tay đường Sydnei rất nhiều. Vì thế, người có vân tay cong đi ngang qua gần lòng bàn tay là đường Sydnei, cần đặc biệt chú ý trong cuộc sống hàng ngày phải tích cực dự phòng chứng bệnh ung thư. (Phương pháp dự phòng có thể xem "ghi chú" ở cuối phần này).
Vân đường cong ngang gần lòng bàn tay kết thúc ở đầu dưới của ngón tay vô danh và ở chỗ xuất hiện một mắt lớn, có thể thể hiện bị bệnh thần kinh đại não, đầu cuối của các đường vân cong ngang gần lòng bàn tay, đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá) và đường vân ngang xa lòng bàn tay có các đường vân cắt đứt, hiện tượng này thường thấy ở những người bị bệnh phổi.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay kéo dài xuống dưới theo vùng ngư tế (cá nhỏ), giữa đường bị cắt và sinh ra nhiều đường dọc, đồng thời ở phần chân ngón út sinh ra nhiều đường dọc, trường hợp này thường thấy ở người bị viêm bàng quang.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay to hay nhỏ không đều hoặc nhỏ, hoặc bị cắt, hiện tượng này thường thấy ở bệnh xuất huyết não.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay lúc ẩn lúc hiện, rất mờ nhạt, hiện tượng này rất có thể là bị bệnh ở thần kinh đại não. Vân cong ngang gần lòng bàn tay cong theo hướng chỗ nhô ra của ngón cái, hiện tượng này có thể là bị bệnh tâm thần.
Vân cong ngang gần lòng bàn tay khi có vân dạng sóng gợn rõ rệt, thường thể hiện là bị bệnh ở hệ thống thần kinh.
Trên vân cong ngang gần tâm có mắt nhỏ thường biểu hiện đại não có bệnh.
Trên vân cong ngang gần tâm xuất hiện chấm đen hoặc vết ố bẩn, trường hợp này có khả năng trong não có khối u.
(3) Vân tay cong ngang xa lòng bàn tay (xa tâm):
Khởi đầu của vân tay công ngang xa tâm có hai đường vân sợi, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh thống phong (đau gió).
Đầu cuối của vân tay cong ngang xa tâm bị cắt thành hình dạng xương sườn thường thấy ở người bị lao phổi.
Vân cong ngang xa tâm ở vị trí phía dưới ngón tay vô danh (ngón đeo nhẫn), khi bị cắt bởi đoạn thẳng thành hai đoạn ngắn và thô, hiện tượng này thường thấy ở người bị cao huyết áp.
Khi đầu dưới vân cong ngang xa tâm có rất nhiều đường đứt đoạn có hình dạng lông, hiện tượng này thường biểu lộ ra ở người có hệ thống huyết quản não bị bệnh.
Vân tay cong ngang xa tâm bị đứt, nếu phía dưới ngón giữa hoặc ngón vô danh có hiện tượng đứt nứt, hơn nữa lại thấy miệng đứt tương đối rộng thì thường thấy ở những người dễ bị bệnh ở hệ thống tuần hoàn máu hoặc hệ thống hô hấp. Nếu phía dưới ngón út có hiện tượng đứt nứt và miệng đứt nứt tương đối to thì chứng tỏ là dễ bị bệnh tật về gan.
Vân cong ngang xa tâm rất mờ nhạt và là hình gợn sóng cong xoắn, có vân bị cắt đứt, giữa vân cong ngang xa tâm với vân cong ngang gần tâm hoặc vân ở ngư tế (vùng cá) có kẹp vào đường xiên, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh về tim.
Trên vân cong ngang xa tâm có đường dọc, hiện tượng này biểu thị dễ bị viêm họng và có khuynh hướng ung thư vòm họng.
Vân cong ngang xa tâm dài, biểu hiện dễ bị bệnh ở ruột và dạ dày do thần kinh.
Trên vân cong ngang xa tâm có mắt nhỏ, thường thấy ở người thần kinh suy nhược.
(4) Đường vân sức khoẻ khác thường:
Chúng ta đã trình bày ở phía trước, đường vân sức khoẻ tốt nhất là không nên có. Đương nhiên, có đường vân sức khoẻ cũng không có nghĩa là phát sinh bệnh tật. Có khi tình trạng cơ thể có lúc tương đối kém, đường vân sức khoẻ luôn luôn sâu thêm, đợi đến khi sức khoẻ được khôi phục, lại trở nên nông và mờ nhạt. Nhưng những đường vân sức khoẻ ngắn và biến sắc thì thường thường là tín hiệu báo động có bệnh nặng, cho nên không nên coi thường đường vân sức khoẻ ngắn. Như:
Ở chính giữa bàn tay có đường vân sức khoẻ ngắn, có thể thấy ở bệnh tim, nếu mầu sắc của nó và vùng phụ cận có màu sắc tối (màu tro nhạt), màu hồng sẫm, mầu nâu, mầu đỏ (mầu phấn hồng nhạt thì hiện tượng này có thể coi là bình thường) ... Trường hợp này thường biểu thị là hệ thống tiêu hoá rất có khả năng bị bệnh.
Đường vân sức khoẻ ngắn và sâu, cắt qua giữa các đường vân cong ngang xa tâm và đường vân cong ngang gần tâm, hiện tượng này thường biểu thị có bệnh ở đại não.
Khi đường sức khoẻ tiếp xúc với đường vân cong ngang ngư tế (vùng cá), hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh ở huyết quản và ở tim.
Đường vân sức khoẻ xuyên qua đường vân ngang ngư tế (vùng cá), thường thấy ở bệnh suy nhược cả phủ tạng, nhất là bị suy tim.
Khi đường sức khoẻ hình thành đường gạch gạch đứt quãng, thường biểu thị có bệnh ở gan.
Đường vân sức khoẻ có rất nhiều mắt nhỏ và có hình dạng dây xích, thường thấy ở người có bệnh ở hệ thống hô hấp.
Trên đường vân sức khoẻ có lấm chấm màu nâu sẫm, thường thấy ở người bị bệnh nặng, nhất là có khả năng bị ung thư, cần phải cảnh giác.
Chỗ tiếp xúc giữa đường sức khoẻ với đường vân xa tâm có mầu đỏ sẫm, thường thể hiện khả năng bị bệnh tim.
(5) Các vân tay khác thấy có khác thường.
Phía dưới tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) nổi nhô lên và có vân ngang, vân tay sau khi tắm tăng lên nhiều, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh thận.
Chỗ tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) có đường vân ngang hoặc có đường ngắn hình cung, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh đái đường. Phía ngoài tiểu ngư tế (vùng cá nhỏ) có nhiều vân gấp, hiện tượng này thường thấy ở người bị bệnh ở đường ruột và dạ dày.
3- Quan sát móng tay.
Móng tay của người ta giống như cái "màn che ánh sáng" có diện tích kích thước khác nhau, được lắp một cách ngay ngắn ở đầu 10 ngón tay. Hình thái móng tay có thể thay đổi theo thời gian, tuỳ theo thời gian đều có thể phản ánh lên tình trạng thay đổi về sinh lý, bệnh lý của cơ thể.
Móng tay được cấu tạo bởi da trên đã hoá sừng rắn chắc. Móng tay của người khoẻ mạnh thể hiện nửa trong suốt, trong có mầu hồng nhạt, mặt bóng nhẵn, phẳng phiu, rắn chắc và có tính đàn hồi nhất định, có độ dày mỏng thích hợp, ăn khớp với hình dạng ngón tay mang móng đó. Móng tay bình thường trung bình dài khoảng 12,8mmm dày độ 0,50 đến 075mm trung bình mỗi tuần dài ra được từ 0,5 đến 1,2mm. Sau khi thay móng hoặc nhổ bỏ, cần thời gian 100 ngày mới có thể hoàn toàn mọc ra hết. Móng tay về mùa hè dài ra tương đối nhanh, ban ngày dài nhanh hơn ban đêm, móng tay nam dài nhanh hơn móng tay nữ, móng tay thanh niên, người lớn dài nhanh hơn của trẻ em và người già. Nếu quan sát kỹ móng tay, còn có thể thấy ở phía phần chân móng tay của ngón cái và ngón trỏ có cùng mầu nhạt hình mặt trăng mới mọc, gọi là cung bán nguyệt (lại gọi là hình bán nguyệt, móng tay hình bán nguyệt). Cung bán nguyệt trong trường hợp bình thường chiếm chừng 1/5 tổng số móng tay, ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh giảm dần, ngón út thì bịt kín toàn bộ. Cung bán nguyệt quá nhỏ, quá to hoặc khác thường, chứng tỏ trong người có bệnh hoặc công năng của cơ quan nội tạng nào đó kém.
Sau khi hiểu được các đặc trưng đó của móng tay, bạn có thể từ trông thấy sự thay đổi khác thường của móng tay mà quan sát biết được bệnh tật. Cách quan sát như sau:
1. Quan sát hình dạng của móng tay.
Móng tay trở nên mỏng, chính giữa lõm xuống, bên cạnh vểnh lên như cái thìa con, gọi là móng tay hình thìa, cũng gọi là móng tay ngược (kiểm ngihệm móng tay xem có lõm vào trong không, có thể đặt móng tay nằm ngang trên bàn) giỏ từng giọt nước lên bề mặt móng tay, nếu giọt nước không tràn ra, tức là móng tay hình thìa). Móng tay hình thìa thường thấy ở những người bị các chứng bệnh như thiếu máu do huyết sắc tố thấp, phong thấp nhiệt, bệnh giun móc, giang mai, bị nhiễm khuẩn và công năng tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường.
Móng tay trở nên mỏng, móng tay sinh trưởng chậm, thô ráp, nhiễm vàng, hiện tượng này thường thấy ở những người bị bệnh đái tháo đường, bị bệnh tim, tuần hoàn máu ở đầu ngón tay bị trở ngại, bị thiếu máu ...
Móng tay bị lồi lên, móng tay xung quanh đầu ngón bị cong cuộn, bên ngoài có dạng thuỷ tinh mờ, hiện tượng đó phần lớn là triệu chứng của bệnh nguy kịch, như bệnh phổi phù hơi, bệnh lao, bệnh tim, bệnh viêm kết tràng do loét, bệnh xơ gan và một số bệnh khối u ác tính ...
Móng tay mập, dày, trở nên cứng, không trong suốt, không nhẵn bóng, thường thấy ở những người bị các chứng bệnh như bị chấn thương ở bên ngoài, bị cảm nhiễm nấm, bị bệnh nhiễm mạt bạc (ngân tiết bệnh), bệnh dày móng tay bẩm sinh, bệnh khuyết lá phôi ngoài bẩm sinh. Nếu móng tay trở nên dày, ngả màu vàng, mặt bên cạnh cong quá lớn, không nhẵn bóng và mọc chậm chạp, hiện tượng này thường thấy ở những người bị các chứng bệnh ở hệ thống hô hấp, hệ thống limpha ở tuyến giáp trạng.
Móng tay bị bóc rời (móng tay tách ra khỏi nền móng), bộ phận tách bóc ra có màu vàng hoặc màu trắng, hiện tượng này thấy nhiều ở các bệnh viêm da do ánh sáng, bệnh blind máu; Móng tay bị tách ra từng lớp như các mảnh vân mẫu, hiện tượng này có thể thấy ở bệnh thiếu máu nặng do thiếu sắc tố. Từ chỗ mép phân ly, móng bong ra, dần dần tách ra khỏi bàn móng, nói chung không quá nửa bàn móng, trường hợp này thường thấy xuất hiện ở những người bị viêm rãnh móng tay, bị bệnh mẩn ngứa, hoặc tay ngâm trong nước nóng và nước xà phòng lâu.
Móng tay bị khô héo, trở nên mỏng, là do dinh dưỡng cục bộ không tốt gây nên, có thể thấy ở những người bị bệnh co giật động mạch đầu chi, bệnh rỗng tuỷ sống hoặc bệnh phong ...
Móng tay có hình tam giác ngược, tức đầu trước móng to, chân móng nhỏ hẹp, chứng tỏ có khuynh hướng bị trúng phong và bị bệnh bại liệt.
Móng tay như dạng quả trám, tức là hai đầu nhỏ, ở giữa to, chứng tỏ công năng huyết quản tim kém, hoặc có khuynh hướng bị bệnh ở tuỷ sống.
Móng tay sinh trưởng chậm rõ ràng, hiện tượng này chứng tỏ bị bệnh nấm da trâu, bị viêm da do thần kinh và một số cơ quan nội tạng nào đó có bệnh, hoặc bản thân móng tay có biến chứng bệnh lý.
Trên móng tay có "rãnh ngang", chứng tỏ dinh dưỡng không tốt, hoặc bị bệnh sởi, bệnh quai bị truyền nhiễm hoặc bệnh tim quấy nhiễu. Trên bản móng tay có vài đường rãnh ngang hình sóng, như bàn giặt quần áo, hiện tượng này phần nhiều là bị bệnh viêm rãnh móng tay hoặc bị tổn thương nền móng tay hoặc phần nền móng tay bị ung nhọt chèn ép gây nên.
Móng tay thế dốc ngược, có người quan sát thấy, khi cơ thể bị đánh một lần, bị thương hoặc bị bệnh nặng, ở phần chân móng tay có thể có dốc ngang, tùy theo sự biến chuyển của thời gian, dốc ngang này dần dần mọc dài ra theo đầu móng tay, phải cần khoảng nửa năm, dốc ngang này có thể dài đến đầu cuối của móng tay và mất đi. Vì thế, móng tay có dốc ngang chứng tỏ bạn có thể đang bị bệnh, cần phải chú ý.
Móng tay có vân dọc, có thể là do thiếu vitamin A hoặc chứng tỏ một cơ quan, tổ chức bộ phận nào đó của cơ thể đang có chứng viêm mạn tính. Nếu cả 10 móng tay có vân dọc đồng thời thì chứng tỏ có thể có triệu chứng của bệnh gan. Nếu chỉ có một móng tay có vân dọc thì khả năng là do bị chấn thương ở ngoài gây nên. Nếu móng tay có vân dọc rõ rệt thì thường thấy ở những người có chứng bệnh tuần hoàn máu xung quanh bị trở ngại, bị nấm rêu và bị chứng lỗ chân lông hoá sừng, vân dọc thành từng chuỗi hột là đặc trưng của bệnh viêm khớp do phong thấp.
Trên móng tay có hố lõm không đều đặn, hiện tượng này phần lớn là do nguyên nhân bị bệnh nấm da trâu.
Không có móng tay.Lúc sinh ra không có móng tay gọi là chứng thiếu móng tay bẩm sinh, hiện tượng này có liên quan đến nhân tố di truyền. Trường hợp về sau này mới thiếu móng tay thì thường là do bản móng tay tổn thương, bị hỏng, hoặc bị chứng viêm tái phát gây ra.
Người có tỷ lệ móng tay hình bán nguyệt ở phần chân móng tay (bình thường chiếm 1/5 toàn bộ móng), như vậy chứng tỏ tình trạng sức khoẻ của người đó tốt. Hình bán nguyệt không có hoặc có nhưng quá nhỏ, như vậy chứng tỏ chức năng tiêu hoá kém, nếu hình bán nguyệt đó lớn quá hoặc vượt quá tỷ lệ bình thường (1/5) thì chứng tỏ người đó bị cao huyết áp hoặc khả năng bị trúng phong. Người có cả 10 ngón tay hoàn toàn không có hình bán nguyệt ở móng thì phần lớn là bị thiếu máu, bị suy nhược thần kinh, bị huyết áp thấp. Người có 10 ngón tay có hình bán nguyệt cùng quá lớn cả thì chứng tỏ trong cơ thể đã mất đi công năng thay thế bù đắp, đã có bệnh mạn tính.
Ấn nhẹ ở mép phía trước móng tay, nếu tổ chức ở phần đáy móng tay có hiện tượng đập theo tim mà sung huyết có tính quy luật thì gọi là nhịp đập của mao huyết quản, phần nhiều do van động mạch chủ đóng không đều, ống dẫn động mạch bẩm sinh chưa đóng, động mạch và tĩnh mạch bị có ngòi, cơ năng tuyến giáp trạng hoạt động quá mức bình thường ... gây nên.
Phần vành móng bị thay đổi. Nếu vành móng bị sưng đỏ nhẹ (thường xảy ra ở vành móng của một bên cạnh), hiện tượng này thấy nhiều ở thời kỳ đầu của bệnh viêm cơ da, bị mụn phát ban và bệnh da cứng. Nếu vành móng bị sưng tấy đỏ cục bộ, có kèm theo lồi lõm móng tay, mép vành móng bị co lại có thể thấy ở người bị bệnhh đái tháo đường.
Còn móng tay có đốm xám, "phong ban", thường gọi là móng tay xám, đó là do bản thân móng tay có bệnh, y học gọi là nấm móng tay, là do mấy loại nấm ngoài da gây nên, cần sớm điều trị, nếu không kéo dài sẽ gây ra nấm ăn tay, nấm ăn chân và nấm ăn ra cả cơ thể ...
Đầu ngón tay hoặc móng tay biến dạng, đây cũng thường xuyên là biểu hiện của một số bệnh mạn tính.
2. Quan sát màu sắc của móng tay:
Móng tay có màu trắng. Ở đây có mấy trường hợp:
(1) Nếu bề ngoài mống tay thường xuyên có màu trắng thì biểu thị huyết dịch trong cơ thể không đầy đủ, có hiện tượng thiếu máu.
(2) Móng tay có màu trắng như sáp, không nhẵn bóng, đó chính là biểu hiện của các chứng mất máu mạn tính như xuất huyết của bệnh loét hoặc bệnh giun móc.
(3) Đại bộ phận dưới móng tay có màu trắng, màu phấn hồng bình thường giảm đến chỉ còn một đường nhỏ dựa sát đầu ngón tay, như vậy khả năng là triệu chứng của bệnh xơ cứng gan.
(4) Bộ phận đầu xa của móng tay có màu trắng như thuỷ tinh mờ, có mầu nâu hồng hiện tượng này có thể thấy ở chứng công năng thận không toàn vẹn mạn tính mà có chứng cao đạm trong máu.
(5) Trên móng tay có đường màu trắng xuyên ngang, có thể thấy ở bệnh ngộ độc các kim loại như Arsenic (AS) và chì (PG) hoặc thấy ở người bệnh hodgkin (tức bệnh limphô hạt ác tính) và bệnh da thô ráp ...
(6) Trên móng tay có hai đường màu trắng xuyên ngang thường thường thể hiện ở người có chứng hạ protêin trong máu và thấy nhiều ở bệnh thành phần protêin trong máu thấp do bệnh mạn tính gây nên.
(7) Bề mặt bản móng tay có vết đốm hoặc vân trắng hình sợi, đó thường do dinh dưỡng bị trở ngại, phần nhiều là tượng trưng của bệnh gan mạn tính, bệnh xơ gan, bệnh đau thận.
(8) Khi móng tay phẳng có màu trắng xám, đó có thể là triệu chứng của bệnh lao phổi ở vào thời kỳ cuối và bệnh suy tim do phổi gây nên.
Ngoài ra, móng tay trắng hết, có khả năng là do bẩm sinh, có người là do bệnh nghề nghiệp.
Trên móng tay của người già có mảng lốm đốm màu trắng và đường vân dọc xuất hiện có tính chu kỳ, đó là sự thay đổi thường gặp ở móng tay của người già, không phải là trạng thái bệnh, không cần lo lắng.
Móng tay có màu vàng. Ở đây cũng có mấy trường hợp:
(1) Móng tay trở nên vàng, thường biểu thị gan có vấn đề, phần nhiều là viêm gan vàng da, cũng thấy ở người bị bệnh xuất huyết mạn tính.
(2) Cơ năng của tuyến giáp trạng bị suy giảm, bị chứng tổng hợp của bệnh thận và chứng máu có chất ca rô tin, có thể gây ra vàng móng tay, nấm móng tay cũng có thể gây ra vàng móng tay.
(3) Nếu móng tay không chỉ vàng mà biến thành dày, độ cong ở bên cạnh cũng lớn, mà còn sinh trưởng chậm, mỗi tuần mọc thêm ra được dưới 0,2mm, lại có thêm cả chứng phù lim pha nguyên phát và thẩm dịch trong khoang ngực, như vậy là đã bị "chứng tổng hợp vàng móng tay".
(4) Nếu thấy móng tay có hình dạng giống như khuôn đồng vàng đã bị búa đánh vào, đó là do chứng rụng tóc từ tính miễn dịch của cơ thể mà hiện nay chúng ta còn biết rất ít về nó gây nên. Loại bệnh này có thể làm người ta rụng tóc một phần hoặc rụng hết cả tóc.
(5) Nếu thấy xung quanh đầu ngón tay có màu vàng thì phải cảnh giác với bệnh khối u có sắc tố màu đen ác tính.
Ngoài ra, người dùng thuốc tetracycline lâu ngày móng tay cũng có thể có màu vàng, người già do móng tay bị thoái hoá, cũng hơi có màu vàng nhạt, hút thuốc lá lâu ngày sẽ làm móng tay bị hun vàng, các trường hợp này không coi là móng tay ở trạng thái bệnh.
Mống tay có màu đỏ: Căn cứ vào chỗ có màu đỏ khác nhau, có thể phân ra mấy trường hợp như sau:
(1) Gần sát chân móng là màu đỏ ửng, còn ở phần giữa thân móng và phần trước chân móng là màu trắng nhạt, đó phần nhiều là bị bệnh ho hen, bị khạc ra máu, tiếp cận với đầu móng tay, một nửa có màu phấn hồng hoặc màu hồng, còn một nửa tiếp cận với màng bảo vệ là màu trắng, trường hợp đó có khả năng là triệu chứng của bệnh suy thận mạn tính.
(2) Móng tay đều là màu đỏ ửng, đó là tượng trưng cho bệnh lao phổi và bệnh lao ruột thời kỳ đầu (nếu bóp móng tay, khi bỏ tay bóp ra, huyết sắc khôi phục nhanh, là bệnh còn nhẹ, huyết sắc khôi phục chậm là bệnh tình đã tương đối lâu rồi).
(3) Dưới móng tay có lấm chấm đổ hoặc có vân tay màu đỏ dọc, chứng tỏ mao huyết quản bị xuất huyết, có thể là do có bệnh cao huyết áp, bệnh ngoài da, bệnh tim hoặc bị một số bệnh nghiêm trọng nào đó.
(4) Xung quanh móng tay có nốt ban đỏ, chứng tỏ có thể bị viêm cơ da hoặc bị bệnh mụn nhọt, bị nốt ban đỏ toàn thân.
(5) Đầu trước móng tay có giải màu đỏ ngang, chứng tỏ bị viêm đường ruột, dạ dày hoặc màng van tim bị xệ, gián cách tâm thất bị khuyết tổn.
(6) Móng tay có màu đỏ sẫm, ấn thấy biến đổi màu, như vậy chứng tỏ cơ quan nội tạng nào đó bị viêm nặng.
Móng tay có màu tím. Đó là một đặc điểm của bệnh tim và bệnh về huyết dịch, nó phản ánh lên trong máu thiếu ô xy hoặc một số thành phần nào đó có khác thường. Nếu màu tím xuất hiện cùng với màu trắng bệch, có thể thấy ở bệnh co giật động mạch đầu chi.
Móng tay có màu xanh. Người bị đau bụng cấp, chân tay lạnh giá, móng tay bỗng nhiên có màu xanh. Phụ nữ bị thai nhi chết trong bụng, móng tay luôn luôn có màu xanh. Ngoài ra có người từng quan sát thấy, móng tay có vết ứ màu xanh, có thể do bị ngộ độc hoặc bị ung thư thời kỳ đầu. Móng tay có màu xanh tím, thấy nhiều ở những người có bệnh tim bẩm sinh hoặc là bị các bệnh về phổi như viêm phổi lá to, phổi bị phù hơi nặng.
Móng tay có màu xanh lục. Bản móng tay bị xanh lục một phần hoặc bị cả móng, hiện tượng này phần nhiều có quan hệ với việc tiếp xúc lâu với nước xà phòng, với nghề làm thuốc tẩy, có khi cũng có thể bị nhiễm trực khuẩn gây mủ màu xanh lục hoặc khúc khuẩn (khuẩn hình cong) có màu xanh lục gây nên.
Móng tay có màu xanh lam. Những bệnh nhân bị bệnh bạch hầu, viêm phổi, bệnh truyền nhiễm đường ruột cấp tính và thực quản có dị vật làm tắc nghẽn, thì có móng tay màu xanh lam, khi hạch có hình dạng to bằng hạt đậu ở gan bị biến đổi tính chất, sự thay thế chuyển hoá của chất đồng (Cu) trong cơ thể bị rối loạn, có khi cũng có móng tay màu xanh lam; Chứng tím ngắt nguyeê phát ở đường ruột gây nên do ăn loại rau không tươi và bị ngộ độc nitrite, có thể làm cho quá trình ô xy hoá hemoglobin thành phần sắt thấp bình thường hoặc hemoglobin thành phần sắt cao mất đi khả năng tải ô xy, tạo thành thiếu ô xy trong các tổ chức của cơ thể, từ đó mà sinh ra móng tay màu lam và da có màu đỏ tím, nhưng điều cần chú ý là một số thuốc như lưu huỳnh, nitrite, atabrine ... cũng gây ra hiện tượng móng tay có màu xanh lam. Phần chân móng tay có dạng hình bán nguyệt màu xanh lam, người có loại móng tay có dạng hình bán nguyệt màu xanh lam, người có loại móng tay này thì tức là đã có tổn thương về tuần hoàn máu, bị bệnh tim hoặc bị chứng tổng hợp Reynols, có khi cũng có quan hệ với các bệnh viêm khớp do phong thấp hoặc bệnh ung nhọt ban đỏ do bệnh miễn dịch tự thân.
Móng tay có màu xám. Có thể thấy ở những người có bệnh tật có tính toàn thân, bệnh phù niêm dịch, viêm khớp loại phong thấp hoặc bị liệt nửa người. Dinh dưỡng kém, móng tay có thể trở nên dày hoặc teo đi và có sắc tố lắng đọng trên mặt hoặc có màu xám. Khi đầu dưới của móng tay cái có hình dạng gợn sóng màu xám thì thường thấy ở bệnh thanh manh.
Móng tay có màu đen. Đa số là do bị chấn thương gây nên. Bị thương dưới móng tay chảy máu, bắt đầu là màu đỏ tím, lâu thành màu tím đen. Sắc tố màu đen ở nền móng tay tăng thêm, kim thuộc nặng là bạc lắng đọng, có thể làm cho móng tay có màu nâu xạm đen; khi dưới móng hoặc xung quanh móng có viêm ở rãnh móng do nhiễm trực khuẩn gây mủ xanh,móng tay có thể có màu đen hoặc màu xanh lam; công năng thận bị suy kiệt mạn tính, thường thấy đầu xa của móng tay có màu đen rõ rệt; thiếu vitamin B12, công năng màng tuyến thượng thận bị giảm, chứng tổng hợp thịt thừa ở ruột và dạ dày, hoặc trực tiếp lâu ngày với coal tar (hắc ín) chẳng hạn, móng tay có thể trở thành màu xám đen. Ngoài ra, có hai trường hợp cần đặc biệt chú ý, trước hết là khi móng tay có mảng màu đen, màu nâu hoặc có dạng vân tàn nhang, thường xẩy ra ở ngón tay cái và ngón chân cái, nhất là khi thấy móng tay và tổ chức xung quanh móng tay cũng có màu nâu hoặc màu đen, thì đó có nghĩa là bị bệnh phổi u ác tính - khối u sắc tố đen. Thứ hai là, khi phần chân móng tay mọc ra một số đường màu đen (thông thường chỉ dài đến giữa móng), chứng tỏ trong cơ thể đang hoặc đã có bệnh ung thư, cần đến ngay bệnh viện kiểm tra thêm để chẩn đoán chính xác và kịp thời điều trị.
Trên đây đã trình bày mấy phương pháp quan sát móng tay để biết bệnh, quan sát tay để biết bệnh cần phải quan sát cả hai tay trái và phải, không thể dùng công thức bất thành lý là "nam tay trái, nữ tay phải". Khi hai tay đều có hiện tượng khác thường thì càng có ý nghĩa về chẩn đoán. Đồng thời quan sát tay để biết bệnh, còn cần xem xét tới nghề nghiệp và những ham thích trong cuộc sống của bệnh nhân, như xem có phải vì đã từng nhuộm móng tay hoặc bị ảnh hưởng của môi trường làm việc mà làm cho móng tay có những biến đổi khác thường như vậy hay không.
Chỉ có loại trừ các nhân tố bên ngoài, mới có thể có phán đoán chính xác được.
Ghi chú:
Chứng ung thư là bệnh đa phát và là bệnh thường gặp. Các nước trên thế giới đều rất coi trọng công tác dự phòng và điều trị bệnh ung thư. Hiện nay xin giới thiệu biện pháp dự phòng bệnh ung thư của Nhật và Mỹ như sau: để bạn đọc tham khảo.
Mười hai biện pháp dự phòng bệnh ung thư của quan chức Nhật Bản đưa ra là:
1. Dinh dưỡng phải được cân đối, không nên ăn thiên lệch về loại thức ăn gì, không nên chỉ thích thiên lệch về một mùi vị nào đó trong thức ăn.
2. Mỗi ngày ăn uống phải thay đổi, không ăn lâu dài thức ăn đồng dạng hoặc cùng uống một loại thuốc.
3. Tránh ăn quá no, hạn chế đúng mức ăn các chất mỡ.
4. Cố gắng không uống rượu, nhất là không nên uống rượu mạnh.
5. Ít hút thuốc hoặc cai hẳn thuốc.
6. Ăn nhiều thức ăn có chất xenluylô bảo đảm lượng vitamin thích hợp, như vitamin A, C và E ...
7. Ít ăn muối, không ăn thức ăn nóng bỏng quá.
8. Không ăn thức ăn cháy và muối.
9. Không ăn thức ăn bị mốc, bị vữa nát, bị thiu.
10. Tránh tắm nắng có ánh sáng mạnh, không nên đi dưới trời nắng quá.
11. Năng luyện tập thể thao thể dục vừa phải, không nên làm việc quá mệt mỏi.
12. Thường xuyên tắm rửa, bảo đảm thân thể sạch sẽ.
Bảy nguyên tắc phòng ngừa bệnh ung thư do Sở nghiên cứu chứng bệnh ung thư và Viện khoa học Mỹ nêu ra:
1. Không hút các loại thuốc, không hút thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào.
2. Tăng lượng thức ăn có chất xenluylô, giảm số lượng ăn chất mỡ, không ăn tức ăn ô nhiễm, út ăn thức ăn chế biến dưới ình thức muối và thức ăn hun đốt.
3. Nếu uống rượu, cần cố hạn chế, mỗi ngày chỉ nên uống 1 - 2 chén.
4. Cần phải hiểu rõ về nơi mình công tác, tuân thủ quy tắc vệ sinh và an toàn.
5. Loại bỏ những nhu cầu không thuộc điều trị bệnh, không nên tiếp xúc tới tia X.
6. Bảo vệ da, không để ánh sáng mặt trời quá mức rọi vào da thịt.7. Chỉ khi thật cần thiết, mới dùng đến các loại chất kích thích.
[Tử vi tướng số] Xem Chân biết bệnh
Kinh lạc học trong Trung y cho rằng, lục phủ ngũ tạng của cơ thể con người đều có các huyệt vị, tương ứng trên bàn chân. Bàn chân là nơi hội tụ của các kinh lạc, trên lâm sàng thường căn cứ vào sự thay đổi trên các chỗ của kinh lạc tuần hoàn để chẩn đoán những biến đổi bệnh lý của các phủ tạng.
Kinh lạc học trong Trung y cho rằng, lục phủ ngũ tạng của cơ thể con người đều có các huyệt vị, tương ứng trên bàn chân. Bàn chân là nơi hội tụ của các kinh lạc, trên lâm sàng thường căn cứ vào sự thay đổi trên các chỗ của kinh lạc tuần hoàn để chẩn đoán những biến đổi bệnh lý của các phủ tạng. Ở phương Tây, chân được coi là trái tim thứ hai của con người. "Túc phản xạ học" (Foos Reflexology) của Âu Mỹ, cho rằng các biểu hiện khác nhau của các chỗ ở chân người, thường phản ánh những biến đổi bệnh lý của các cơ quan trong cơ thể con người.
Tóm lại, bất kể là trong nước hay ngoài nước, đều có người coi việc xem bàn chân để biết bệnh là một phương tiện chẩn đoán bệnh phụ trợ.
Phương pháp xem chân biết bệnh có:
1. Xem hình dạng bàn chân:
Ngón chân bắt đầu sưng tấy, sau dần dần kéo dài lên gối, phần lớn là triệu chứng của bệnh tim.
Chân và mặt đều bị phù, là triệu chứng của bệnh nhân.
Đường vân của bàn chân rất rõ, chứng tỏ khả năng bị bệnh về lo nghĩ, uất ức, tâm thần. Móng naă ngón chân đều vênh lên, có khả năng là triệu chứng báo trước sẽ bị áp lực về tinh thần tương đối mạnh.
Móng chân có những vân ngang dọc, biểu hiện cơ thể đang ở vào trạng thái mỏi mệt cực độ, cơ năng của cơ thể bị giảm, dễ bị mắc bệnh.
Da bên bụng ngón chân cái có vân thô hình màng lưới và ở nữ giới lại có tổn thương hình lỗ kim châm, khả năng sẽ có các loại triệu chứng mất điều hoà sự phân tiết tuyến giới tính, như kinh nguyệt không đều, ham muốn tình dục giảm ... Bên phía bụng ngón chân, nếu có hiện tượng lồi lõm không tự nhiên thì phần nhiều là biểu hiện của những người sử dụng quá nhiều thuốc chữa bệnh.
Từ phía bên cạnh mà nhìn thì nếu đốt các ngón chân thứ hai, thứ ba bị cong, thì chứng tỏ có thể người đó bị bệnh ở dạ dày và ở ruột.
Khi nằm sấp, hai đầu ngón ngón chân bên trái và bên phải lúc xoay ra bên ngoài mà cảm thấy dễ chịu, yên ổn, lúc xoay vào bên trong mà thấy khó chịu (người bình thường nếu hai bàn chân cùng xoay ra ngoài thì sẽ cảm thấy khó chịu, và để thế không ổn), những người như vậy chứng tỏ có khả năng là chân trái bị bệnh, hoặc bị mắc bệnh tim.
Khi nằm sấp, hai ngón chân bên trái và bên phải dài ngắn không đều, những người như vậy có khả năng dễ bị cảm cúm và bị bệnh dạ dày, nếu là nữ thì dễ bị đau bụng khi hành kinh.
Khi nằm ngửa, ngón chân kéo rất dài ra phía trước, tức ngón chân không thể thu về theo hướng thân người, chỉ kéo ược về phía tớc thì tính đàn hồi của phổi những người đó (người bình thường ngón chân có thể thu về phía thân người) không tốt, dễ bị phù phổi.
Hai đầu gối cong vào phía trong, hai bàn chân không thể khép lại bình thường, nữ giới mà nh thế thì dễ bị mắc bệnh về phụ khoa như có khối u cổ tử cung, bị bệnh về tử cung, bị đau bụng kinh, đẻ khó, bị vô sinh ...
Cổ chân to, thường thấy ở những người có bệnh thận. Những người cổ chân bên phải to, thể hiện thận bên phải có bệnh, người cổ chân bên trái to, chứng tỏ thận trái có bệnh.
2- Ấn vào các điểm đau của bàn chân:
Mỗi một điểm của bàn chân người ta hầu như đều có mối liên hệ tương ứng với các cơ quan của cơ thể. Khi bạn ấn vào một điểm nào đó của bàn chân cảm thấy đau thì biểu hiện là ở cơ quan liên quan với điểm đó có bệnh. Điều này ở phương Tây gọi là "túc phản xạ học". Hiện nay tuy còn thiếu sự giải thích rõ ràng, chính xác về mặt khoa học, nhưng rất dễ được chứng minh bằng thực tế. Ví dụ: ấn xoa vào ngón chân giữa, rất nhanh cảm thấy ngón tay giữa ấn lên, bởi vì ngón tay giữa có liên hệ nhất định với ngón chân giữa.
Ấn vào điểm đau của bàn chân để thăm dò bệnh, có khi cũng thấy xuất hiện hai trường hợp như sau:
Một là, khi ấn vào điểm đau của bàn chân, hầu như các chỗ của bàn chân đều có phản ứng, khi đó, không nên cho là người đó đã có bệnh toàn thân, mà đó chỉ là biểu hiện rõ công năng các hệ thống của cơ thể chưa phát huy được hoàn toàn bình thường hoặc do nguyên nhân ấn vào điểm đau của chân đặc biệt nhạy cảm.
Hai là, biết rõ công năng của một cơ quan nào đó không tốt, nhưng ấn vào bàn chân cũng không thấy có phản ứng gì. Điều đó nếu không phải là chẩn đoán sai về bệnh đã biết, thì chỉ có một khả năng là da chân bị cứng mà cảm giác chậm trễ đó thôi. Khi đó cần xử lý trước chỗ da bị cứng, rồi ấn vào điểm đau của bàn chân sẽ có phản ứng mạnh.Thuyết minh: Đây là sơ đồ 8 huyệt vị bên chân phải. Trong chân phải biểu thị rõ các vị trí của "mắt trái, "vai phải" ... Nếu đổi thành chân trái, thì ngược lại, biểu thị rõ "mắt phải", "vai trái", còn lại biểu thị rõ 8 huyệt vị của các tạng, hai bàn chân giống nhau.
Kinh lạc học trong Trung y cho rằng, lục phủ ngũ tạng của cơ thể con người đều có các huyệt vị, tương ứng trên bàn chân. Bàn chân là nơi hội tụ của các kinh lạc, trên lâm sàng thường căn cứ vào sự thay đổi trên các chỗ của kinh lạc tuần hoàn để chẩn đoán những biến đổi bệnh lý của các phủ tạng. Ở phương Tây, chân được coi là trái tim thứ hai của con người. "Túc phản xạ học" (Foos Reflexology) của Âu Mỹ, cho rằng các biểu hiện khác nhau của các chỗ ở chân người, thường phản ánh những biến đổi bệnh lý của các cơ quan trong cơ thể con người.
Tóm lại, bất kể là trong nước hay ngoài nước, đều có người coi việc xem bàn chân để biết bệnh là một phương tiện chẩn đoán bệnh phụ trợ.
Phương pháp xem chân biết bệnh có:
1. Xem hình dạng bàn chân:
Ngón chân bắt đầu sưng tấy, sau dần dần kéo dài lên gối, phần lớn là triệu chứng của bệnh tim.
Chân và mặt đều bị phù, là triệu chứng của bệnh nhân.
Đường vân của bàn chân rất rõ, chứng tỏ khả năng bị bệnh về lo nghĩ, uất ức, tâm thần. Móng naă ngón chân đều vênh lên, có khả năng là triệu chứng báo trước sẽ bị áp lực về tinh thần tương đối mạnh.
Móng chân có những vân ngang dọc, biểu hiện cơ thể đang ở vào trạng thái mỏi mệt cực độ, cơ năng của cơ thể bị giảm, dễ bị mắc bệnh.
Da bên bụng ngón chân cái có vân thô hình màng lưới và ở nữ giới lại có tổn thương hình lỗ kim châm, khả năng sẽ có các loại triệu chứng mất điều hoà sự phân tiết tuyến giới tính, như kinh nguyệt không đều, ham muốn tình dục giảm ... Bên phía bụng ngón chân, nếu có hiện tượng lồi lõm không tự nhiên thì phần nhiều là biểu hiện của những người sử dụng quá nhiều thuốc chữa bệnh.
Từ phía bên cạnh mà nhìn thì nếu đốt các ngón chân thứ hai, thứ ba bị cong, thì chứng tỏ có thể người đó bị bệnh ở dạ dày và ở ruột.
Khi nằm sấp, hai đầu ngón ngón chân bên trái và bên phải lúc xoay ra bên ngoài mà cảm thấy dễ chịu, yên ổn, lúc xoay vào bên trong mà thấy khó chịu (người bình thường nếu hai bàn chân cùng xoay ra ngoài thì sẽ cảm thấy khó chịu, và để thế không ổn), những người như vậy chứng tỏ có khả năng là chân trái bị bệnh, hoặc bị mắc bệnh tim.
Khi nằm sấp, hai ngón chân bên trái và bên phải dài ngắn không đều, những người như vậy có khả năng dễ bị cảm cúm và bị bệnh dạ dày, nếu là nữ thì dễ bị đau bụng khi hành kinh.
Khi nằm ngửa, ngón chân kéo rất dài ra phía trước, tức ngón chân không thể thu về theo hướng thân người, chỉ kéo ược về phía tớc thì tính đàn hồi của phổi những người đó (người bình thường ngón chân có thể thu về phía thân người) không tốt, dễ bị phù phổi.
Hai đầu gối cong vào phía trong, hai bàn chân không thể khép lại bình thường, nữ giới mà nh thế thì dễ bị mắc bệnh về phụ khoa như có khối u cổ tử cung, bị bệnh về tử cung, bị đau bụng kinh, đẻ khó, bị vô sinh ...
Cổ chân to, thường thấy ở những người có bệnh thận. Những người cổ chân bên phải to, thể hiện thận bên phải có bệnh, người cổ chân bên trái to, chứng tỏ thận trái có bệnh.
2- Ấn vào các điểm đau của bàn chân:
Mỗi một điểm của bàn chân người ta hầu như đều có mối liên hệ tương ứng với các cơ quan của cơ thể. Khi bạn ấn vào một điểm nào đó của bàn chân cảm thấy đau thì biểu hiện là ở cơ quan liên quan với điểm đó có bệnh. Điều này ở phương Tây gọi là "túc phản xạ học". Hiện nay tuy còn thiếu sự giải thích rõ ràng, chính xác về mặt khoa học, nhưng rất dễ được chứng minh bằng thực tế. Ví dụ: ấn xoa vào ngón chân giữa, rất nhanh cảm thấy ngón tay giữa ấn lên, bởi vì ngón tay giữa có liên hệ nhất định với ngón chân giữa.
Ấn vào điểm đau của bàn chân để thăm dò bệnh, có khi cũng thấy xuất hiện hai trường hợp như sau:
Một là, khi ấn vào điểm đau của bàn chân, hầu như các chỗ của bàn chân đều có phản ứng, khi đó, không nên cho là người đó đã có bệnh toàn thân, mà đó chỉ là biểu hiện rõ công năng các hệ thống của cơ thể chưa phát huy được hoàn toàn bình thường hoặc do nguyên nhân ấn vào điểm đau của chân đặc biệt nhạy cảm.
Hai là, biết rõ công năng của một cơ quan nào đó không tốt, nhưng ấn vào bàn chân cũng không thấy có phản ứng gì. Điều đó nếu không phải là chẩn đoán sai về bệnh đã biết, thì chỉ có một khả năng là da chân bị cứng mà cảm giác chậm trễ đó thôi. Khi đó cần xử lý trước chỗ da bị cứng, rồi ấn vào điểm đau của bàn chân sẽ có phản ứng mạnh.Thuyết minh: Đây là sơ đồ 8 huyệt vị bên chân phải. Trong chân phải biểu thị rõ các vị trí của "mắt trái, "vai phải" ... Nếu đổi thành chân trái, thì ngược lại, biểu thị rõ "mắt phải", "vai trái", còn lại biểu thị rõ 8 huyệt vị của các tạng, hai bàn chân giống nhau.
Thursday, November 27, 2014
[Tử vi tướng số] Xem Mũi biết bệnh
Mũi là lỗ thủng của phổi", là cửa hít vào thở ra của con người. Trong nội tạng của người có bệnh, thường có thể phản ánh ra từ mũi. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu mới nhất.
PHÂN BIỆT BỆNH QUA MŨI.
"Mũi là lỗ thủng của phổi", là cửa hít vào thở ra của con người. Trong nội tạng của người có bệnh, thường có thể phản ánh ra từ mũi. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học nước ngoài, đã thấy rõ từ mũi của một người sẽ có thể nhìn thấy tình trạng sức khoẻ của người đó.
Phương pháp quan sát mũi để biết bệnh.
1- Nhìn hình thái của mũi.
Nói về mặt mỹ quan của con nời, thì hình thái mũi là tiêu chí quan trọng để xét xem ngũ quan của con người có ngay ngắn, đâu ra đấy không, sắc mặt có khoẻ đẹp không. Mũi mà cao và thẳng là điều có sức hấp dẫn nhất. Nhưng mũi cao hay thấp thực ra không phải là tự bản thân có thể tạo ra được. Đó là do nhân tố di truyền, có người sống mũi cao một chút, có người sống mũi thấp một chút, có người đầu mũi nhọn một chút, có người đầu mũi tròn một chút, hình dạng mỗi người mỗi khác. Còn dung mạo cấu thành khác nhau thì đó đều không phải là bệnh. Chỉ có một hình thái cần chú ý, đó là chứng bệnh lõm sống mũi do sống mũi sụt tẹt, hình thành ra cái lõm, hiện tượng này phần lớn là do bẩm sinh hoặc là về sau do bị giang mai mà sinh ra như vậy. Hoặc ở một vùng nào đó bị mắc bệnh đã huỷ hoại khi khôii phục để lại tình trạng như vậy.Do đó, khi phát hiện thấy mũi có hình trạng này thì cần phải cảnh giác, xem kỹ xem có phải là bị mắc bệnh nói trên không. Ngoài ra, khi xuất hiện chứng bệnh lõm sống mũi còn có thể là do bị thương tổn ở ngoài gây nên nữa, như vậy cần phải giám định kỹ để phân biệt rõ với bệnh lõm sống mũi do bệnh "giang mai" gây nên.
Các nhà khoa học nước ngoài đã chỉ ra: nếu mũi một người tự nhiên rất cứng, khác thường thì đó có thể là dấu vết của bệnh xơ cứng động mạch, hoặc trong cơ thể người đó côlextêrôn quá cao, tích luỹ mỡ trong tim quá nhiều.
Nếu mũi của một người có chỗ bị sưng, chứng tỏ bị bệnh ở tuỵ tạng (lá lách) và thận. Nếu mũi của một người có hình dạng hõm cong thì đó có thể chứng tỏ là bị các chứng bệnh do bố mẹ bị mắc bệnh di truyền lại. Nếu trên mũi phát sinh các mụn lở có đầu đen thì chứng tỏ là người đó ăn quá nhiều thức ăn thuộc loại sữa và dầu mỡ.
Các chuyên gia ở Pháp gần đây đã đi sâu hơn nữa chỉ ra rằng đường, hình trạng của mũi khác thường còn có quan hệ trực tiếp với mắc bệnh ung thư nữa.
Nhà bác học: Mol của Pháp và các đồng sự của ông đã tiến hành nghiên cứu đối với hai nghìn người bị mắc bệnh ung thư đã chết vì bệnh này cũng như những người vẫn đang còn sống, các ông đã phát hiện ra rằng hình thái của mũi con người rõ ràng là có quan hệ với bệnh ung thư.
Ví dụ: người mũi cong như lưỡi câu dễ mắc bệnh ung thư phổi và ung thư họng nhất.
- Người mũi bẹt, dễ bị bệnh ung thư phổi và ung thư họng.
- Người mũi to và "béo", dễ bị ung thư kết tràng và ung thư tuyến tuỵ nhất.
- Người mũi nhọn cong lên, dễ bị ung thư gan và ung thư vú ...
Tuy nhiên, hiện nay chỉ ở giai đoạn nghiên cứu sơ bộ, sự phân loại nói trên thực ra chưa phải đã là tuyệt đối chuẩn xác, cũng không nhất định thích hợp với người phương Đông, nhưng sự lường trước này có thể làm cho mọi người có thể kịp thời phòng bị.
Nhìn vào hình thái của mũi, ngoài nhìn sống mũi ra, cón có thể nhìn cả vào cánh mũi và niêm mạc ở xoang mũi nữa.
Nhìn vào hai bên cánh mũi, nếu thấy có động đậy ở hai bên cánh mũi, tức là khi hít hới vào thì lỗ mũi nở to ra, khi thở hơi ra thì lỗ mũi xẹp nhỏ lại, như vậy tháy rõ được là người mắc bệnh gây sốt cao, hít thở khó khăn, như viêm lá phổi lớn và nhánh khí quản thở khò khè và hiện tượng này bắt nguồn từ bệnh về tim.
Nhìn vào niêm mạc ở xoanh mũi. Niêm mạcở mũi bị sưng cấp tính là do chứng viêm gây xung huyết, kèm theo cả tắc mũi và chảy nước mũi, trường hợp này thường thấy ở viêm mũi cấp tính, Niêm mạc mũi bị sưng mạn tính thì phầnlớn là thấy tổ chức niêm mạc bị dầy lên, đó là do bị viêm mạn tính. Niêm mạc mũi mà teo co lại, các chất phân tiét của xoang mũi bị giảm đi, xoang mũi bị khô, xương lá mía tóp lại, xoang mũi to ra, khứu giác bị suy giảm hoặc bị mất cảm giác, đó là do viêm mũi có tính chất suy thoái mạn tính gây nên.
2. Nhìn vào màu sắc của mũi.
- Nhìn từ góc độ sức khoẻ những người sống mũi trắng, mặt hơi đỏ là đẹp. Nếu mũi xuất hiện một số màu sắc khác thường, thì thường là có bệnh. Ví dụ: Mũi trắng xanh thì thường là bị thiếu máu
- Mũi lộ rõ màu đen thì thường là bệnh dạ dày.
- Những người bị ốm lâu ngày và mũi đen như bị khói hun thì đó là biểu hiện của bệnh tình nghiêm trọng.
- Trên da mũi mà xuất hiện những nốt chấm và những vệt bớt màu nâu xạm đen lại, thì rất có thể là do bị nắng cháy mặt trời hoặc bị bệnh hắc nhiệt, hoặc bị lắng đọng trên da các sắc tố do bị bệnh về gan gây nên.
- Khi da mũi xuất hiện những tổn thương do bệnh; nổi lên các chấm hoặc các bớt đỏ rợ lên, làm mặt da ở đó lồi hẳn lên và lan toả rộng ra hai bên má, thì hiện tượng này thướng thấy lở loét ở các vết sần đỏ có tính chất hệ thống đó.
- Ở hai bên cánh mũi và ở đầu mũi đỏ tấy lên và có những mẩn mụn đỏ hoặc những nốt bỏng dạ nhỏ, hiện tượng này thường ở trường hợp sưng các nốt trứng cá bình thường.
- Mũi thường xuất hiện hiện tượng nổi lên màu lá cọ, màu xanh lam hoặc màu đen, trường hợp này là biểu hiện ở tì tạng (lá lách) và tuỵ tạng có vấn đề.
- Vành trong lỗ mũi đỏ, vách ngăn giữa mũi bị loét, thường thấy ở bệnh giang mai.
- Vành ngoài của lỗ mũi đỏ là biểu hiện của bệnh ở trong ruột.
Da ở đầu của mũi đỏ lên và có thể thấy rõ cả mạng lưới vi ti huyết quản (mao mạch huyết quản) thì đó là đã bị mắc "bệnh mũi bã rượu"), thường vẫn gọi là "mũi đỏ" (trước đây mọi người chú ý thấy rất nhiều trường hợp "mũi đỏ" là những người hay uống rượu, cho nên cho rằng uống rượu là nguyên nhân sinh ra mũi đỏ, vì thế bệnh này mới gọi là "bệnh mũi đỏ bã rượu". Thực ra thì nguyên nhân xác thực của bệnh mũi đỏ này cho đến nay người ta vẫn chưa biểu được một cách thấu đáo. Y học hiện đại cho rằng tất cả những trường hợp bị nhiễm khuẩn, vi khuẩn ở mũi, ở mao nang (lỗ chân lông), uống rượu lâu ngày, ăn nhiều chất kích thích cay đắng, bị nóng quá, bị lạnh quá, bị kích động mạng về mặt tư tưởng, tình cảm, tinh thần luôn bị căng thẳng, công năng của dạ dày và đường ruộ bị rối loạn, mất điều hoà, hệ thống phân tiết trong cơ thể có trở ngại ... tất cả những trường hợp đó đều là những nhân tố thúc đẩy, tạo nên tình trạng mũi đỏ đó. Tất cả mọi nhân tố đó tổng hợp lại tác động lên mũi tạo nên hiện tượng mũi đỏ. Còn có người quan sát thấy khi tuần hoàn tim và huyết dịch sinh bệnh, bị huyết áp cao hoặc công năng gan không tốt cũng có thể xuất hiện tình trạng mũi đỏ như vậy
Subscribe to:
Posts (Atom)